THÔNG CÁO BÁO CHÍ: Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du Danh nhân văn hóa Thế giới (1765-2015)
19/11/2015 | 14:42THÔNG CÁO BÁO CHÍ Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du Danh nhân văn hóa Thế giới (1765-2015)
Ngày 25.10.2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) họp ở Pari đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15 vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân toàn Thế giới. Theo đó, hoạt động tôn vinh Đại thi hào Nguyễn Du được triển khai ở Việt Nam và tại các nước trong cộng đồng UNESCO (niên độ 2014 -2015).
Ngày 15.8.2014, Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có công văn số 8467- CV/VPTW về việc tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, trong đó nêu rõ: “Đồng ý chủ trương tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới trong năm 2015. Tỉnh Hà Tĩnh chủ trì tổ chức Lễ kỷ niệm”.
I. Các hoạt động chính:
Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 31.10.2014, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành Kế hoạch số 470/KH-UBND về Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa Thể giới Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015) với chuỗi 6 hoạt động chính, gồm:
1. Tổ chức các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế do Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam chủ trì trong Quý II năm 2015.
2. Xuất bản “Truyện Kiều” do Hội Kiều học Việt Nam khảo đính và chú giải. Ra mắt bản Kiều dịch sang tiến Nga. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm, giới thiệu, xuất bản các tác phẩm của Nguyễn Du, các tác gia dòng họ Nguyễn Tiên Điền và văn học cổ điển Việt Nam, các công trình nghiên cứu, sáng tác có liên quan; tổ chức dịch và xuất bản Truyện Kiều, các tác phẩm của Nguyễn Du và của các nhà văn cổ điển Việt Nam ra nhiều thứ tiếng khác nhau.
3. Xây dựng phim tư liệu, các tác phẩm âm nhạc, hội họa… về thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, tác phẩm của Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đài Truyền hình Việt Nam, các Hãng phim, Đài truyền hình địa phương thực hiện.
4. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi ngâm Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, diễn trò Kiều, nói chuyện về tác phẩm của Nguyễn Du do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Kiều học Việt Nam, các cơ quan báo chí, các trường Đại học khối khoa học xã hội và nhân văn thực hiện.
5. Họp báo về kế hoạch kỷ niệm do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh Hà Tĩnh chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin Truyền Thông thực hiện vào đầu Quý II năm 2015 tại Hà Nội.
6. Tổ chức các hoạt động hưởng ứng kỷ niệm tại Thủ đô Hà Nội là nơi sinh và tại tỉnh Bắc Ninh, quê mẹ của Đại thi hào Nguyễn Du.
II. Đại thi hào Nguyễn Du-thân thế, sự nghiệp
Nguyễn Du (1765-1820), sinh tại kinh thành Thăng Long. Bố là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1776) làm quan Tham Tụng (Tể tướng) dưới triều Lê, mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi giữ chức Tể tướng, Nguyễn Du theo cha về quê, đến năm 13 tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ. Năm 1783, Nguyễn Du thi đậu Tam Trường, được tập ấm chức Chánh thư Hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà (Hà Mỗ) ở Thái Nguyên. Sau đó, Nguyễn Du lấy vợ là bà Đoàn Thị Huệ, người làng An Hải, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình) con gái của tiến sỹ Đoàn Nguyễn Thục. Năm Mậu Thân (1788), khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, Nguyễn Du lánh về nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tại Thái Bình.
Mười năm ở quê vợ là quãng “Mười năm gió bụi”, bao cảnh cơ hàn, bần cực đều đến với Nguyễn Du. Khi bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục mất, người con trai lớn mất, Nguyễn Du cùng người con trai nhỏ Nguyễn Tứ về quê cũ ở xã Tiên Điền. Trở lại quê, dinh cơ của cha đã tan hoang, anh em đôi ngả, Nguyễn Du thốt lên “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh, gia đình không còn, anh em lưu tán), Nguyễn Du được bà con họ tộc chia cho mảnh đất tại thôn Thuận Mỹ làm nhà để ở. Và cũng từ đây, Nguyễn Du có biệt hiệu “Hồng Sơn liệp hộ” (người đi săn ở núi Hồng Lĩnh) và “Nam Hải điếu đồ” (người câu cá ở bể Nam).
Năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được bổ làm Tri huyện Phù Dung (phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam); tháng 11 làm Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (tỉnh Hà Tây). Năm Quý Hợi (1803), được cử cùng phái bộ nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang sắc phong cho vua Gia Long. Mùa thu năm Giáp Tý (1804), Nguyễn Du cáo bệnh về quê. Năm Ất Sửu (1805), được thăng Đông Các Đại học sĩ, tước Du Đức hầu (hàm ngũ phẩm). Tháng 9 năm Đinh Mão (1807) giữ chức giám khảo thi Hương ở Hải Dương, sau xin về quê. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình. Tháng 9 năm Nhâm Tuất (1812), Nguyễn Du xin nghỉ về quê 2 tháng để xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu về kinh, được thăng hàm Cần Chánh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du trở về nước, có tập thơ “Bắc Hành tạp lục” và được vua Gia Long thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Mùa thu năm Kỷ Mão (1819), được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu từ chối, được chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong. Tuy nhiên, chưa kịp thực hiện thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (06.9.1820), Nguyễn Du bị cảm bệnh và mất tại kinh thành Huế, thọ 55 tuổi.
Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán có các tác phẩm: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Về chữ Nôm có các tác phẩm: Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Văn tế Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường nón và đặc biệt là Truyện Kiều, tác phẩm vĩ đại nhất, tập đại thành của văn học cổ Việt Nam đã đưa Nguyễn Du đạt đến tầm vĩ nhân thế giới, đỉnh cao trong nền văn học nước nhà, làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
III. Kiệt tác Truyện Kiều
Kiệt tác "Truyện Kiều" của Nguyễn Du nguyên có tên là “Đoạn trường tân thanh”, nghĩa là “Tiếng nói mới đứt ruột”. Đây là tác phẩm truyện thơ nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh (Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh) Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại nhà thơ đang sống bằng Truyện Kiều.
Tác phẩm gồm 3254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.
Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Về giá trị nhân đạo, "Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Cùng với đó, “Truyện Kiều” còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người.
Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân, đã nhào nặn lại và góp phần nâng cao nó. Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. “Truyện Kiều” là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.
Với những giá trị to lớn ấy, “Truyện Kiều” hàng trăm năm nay được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca nhạc họa sau này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi, trở thành một phần tinh hoa của nhân loại, một biểu tượng của văn hóa Việt Nam đối với thế giới. Đến nay, Truyện Kiều đã được dịch ra trên nhiều thứ tiếng trên thế giới như tiếng Pháp, Anh, Nga, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức, Thụy Điển, Hung, Ý, Mông Cổ…
IV. Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27.9.2012 của Thủ tướng Chính phủ, các hạng mục chính gồm:
Nhà thờ Nguyễn Du: Năm 1824, Nguyễn Ngũ cùng con cháu trong dòng họ đã đưa hài cốt Nguyễn Du về quê nhà cải táng và lập đền thờ ngay trên khu vườn cũ của ông tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ). Khoảng thời gian từ năm 1934 -1935 nhà thờ bị hỏng. Năm 1940, Hội Khai trí Tiến Đức cùng con cháu họ Nguyễn Tiên Điền xây dựng nhà thờ trong khu vườn họ Nguyễn. Năm 2010, nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du được xây dựng mới và khánh thành vào tháng 11 năm 2012.
Nhà Văn thánh-Bình văn: Văn thánh hàng huyện thờ Khổng Tử do Nguyễn Nghiễm xây dựng. Trước đây, mỗi dịp xuân về các bậc nho túc trong vùng về đây báo ơn, bình văn, đọc thơ và tổ chức lễ "cầu khoa" cầu cho con em trong vùng thành danh trên con đường khoa cử.
Đàn tế, bia đá Nguyễn Quỳnh (ông nội Nguyễn Du): Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được phong Tể tướng, ông cùng em trai là Nguyễn Trọng lập đàn tế, dựng bia đá tưởng nhớ công ơn của cha mẹ.
Mộ Đại thi hào Nguyễn Du: Nguyễn Du lâm bệnh và mất tại Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820) thọ 55 tuổi. Phần mộ đặt tại tại cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1824, con là Nguyễn Ngũ và cháu là Nguyễn Thắng dời về cải táng trong vườn nhà tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ). Năm 1826, Nguyễn Ngũ dịch chuyển ra cạnh đó 500m, hai năm sau được chuyển ra khu nghĩa trang tại xứ Đồng Cùng thuộc thôn Tiền Giáp. Với dự án Tôn tạo khu di tích Nguyễn Du bằng nguồn vốn CTMTQG về văn hoá (1999 -2004), khu mộ đã được xây dựng, chỉnh trang lại như hiện nay.
Đền thờ, mộ Nguyễn Nghiễm (1708-1776): Nguyễn Nghiễm là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về con đường cử nghiệp, khoa bảng họ Nguyễn - Tiên Điền. Ông đậu tiến sỹ năm 1731, làm Tế tửu Quốc Tử Giám (1742), giữ chức Tể tướng (1762) và trong gần năm thập kỷ hoạt động trên chính trường Lê - Trịnh đã để lại nhiều trước tác có giá trị như: “Quân trung liện vịnh”, “Xuân đình tạp vịnh”, “Cổ lễ nhạc thi văn” và bài phú Nôm “Khổng Tử mộng Chu Công”... Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ), thuộc thôn Bảo Kệ, xã Tiên Điền và nhân dân thường gọi đây là đền “Đức Đại vương hai”. Phần mộ ông hiện nằm tại thôn Tiên Thanh xã Tiên Điền.
Đền thờ Nguyễn Trọng (1710-1789), là chú ruột của Nguyễn Du, người giỏi về văn thơ, lý, số, y học. Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ)) ở thôn Tiên Quang, xã Tiên Điền. Kiến trúc đơn giản, nội thất còn giữ lại nhiều đồ tế khí, hoành phi câu đối có giá trị. Trước đền thờ có voi, ngựa đá, tấm bia “Tích thiện gia” và trong khuôn viên còn có mộ phần của ông.
Khu lăng Văn Sự: Là khu mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn - Tiên Điền, gồm mộ Nguyễn Thể - bố Nguyễn Quỳnh; Thuật Hiên công Nguyễn Khản; Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn; Chính thất Lê Quý thị (vợ Phương Trạch hầu); Giới Hiên công Nguyễn Huệ và chính thất Nguyễn Quý Thị (vợ Nguyễn Huệ).
Không gian văn hóa Nguyễn Du: Xây dựng vào năm 2000, gồm Tượng đài, Thư viện Nguyễn Du, Hội trường; Nhà thờ, Nhà bảo tàng Nguyễn Du...
V. Lễ Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới.
Với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học nước nhà và sự phát triển văn hóa của nhân loại, tháng 12/1964, tại thành phố Béclin (Đức) Hội đồng Hòa bình thế giới ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du (1675-1965) cùng với 8 danh nhân văn hoá trên toàn thế giới. Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã có Chỉ thị số 112-CT/TW ngày 26.10.1965 "Về việc kỷ niệm Nguyễn Du". Đây là cột mốc lớn trong việc nghiên cứu, khẳng định và tôn vinh Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Từ đó đến nay các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, văn học của Nguyễn Du vẫn được tiến hành và thu nhiều kết quả mới, nhất là vào các dịp kỷ niệm 240 năm, 245 năm Năm sinh của ông.
Lễ kỷ niệm cấp Quốc gia 250 năm Ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới (1765-2015) sẽ được tổ chức vào ngày 5 tháng 12 năm 2015 tại thành phố Hà Tĩnh, do tỉnh Hà Tĩnh chủ trì với sự chỉ đạo, phối hợp của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan TW với sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các đại biểu quốc tế, trong nước. Chương trình gồm phần lễ và Chương trình nghệ thuật Tiếng thơ ai động đất trời do Cục Nghệ thuật biểu diễn Bộ VHTTDL chỉ đạo và Nhà hát Nghệ thuật đương đại việt Nam thực hiện. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên VTV và các Đài THTW và các địa phương.
Trước Lễ kỷ niệm sẽ diễn ra các hoạt động trong Tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du, bắt đầu từ ngày 28.11 đến 05.12.2015 tại quê hương Đại thi hào Nguyễn Du với các nội dung: Liên hoan nghệ thuật quần chúng các tỉnh với chủ đề Tiếng tơ Tiên Điền; Hội thi thuyết minh viên du lịch Hà Tĩnh; Chiếu phim về chủ đề Nguyễn Du và Truyện Kiều và Trưng bày các ấn phẩm văn chương của Đại thi hào Nguyễn Du và Văn phái Hồng Sơn, hiện vật khảo cổ di tích Bãi Cọi triển lãm ảnh về thành tựu kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh và các hoạt động văn hóa văn nghệ khác trên địa bàn toàn tỉnh.
Phát huy truyền thống quê hương, đất nước, đặc biệt là từ ngày có Đảng, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã luôn nỗ lực, đi đầu trong mọi phong trào hành động cách mạng, làm nên phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, cách mạng tháng Tám năm 1945 và đóng góp sức người, sức của cùng cả nước giành thắng lợi trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc.
Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Hà Tĩnh đã có bước phát triển về mọi mặt. Năm 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt gần 24%, thu ngân sách tiếp tục tăng nhanh, bình quân thu nhập đầu người đạt 40 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 5,5%, hộ cận nghèo còn 10,77%.
Các dự án, công trình kinh tế lớn đảm bảo tiến độ. Khu kinh tế Vũng Áng đang trở thành trung tâm điện lực lớn nhất, khu luyện gang thép lớn nhất và khu cảng nước sâu nhất của cả nước. Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đã hoà lưới điện quốc gia tổ máy số 1 tháng 12 năm 2013, tổ máy số 2 vào tháng 11 năm 2014 góp phần vào tăng trưởng công nghiệp năm 2014.
Chương trình xây dựng nông thôn mới ngày càng đi vào chiều sâu và đạt kết quả toàn diện. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao được nhân rộng, số lượng hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực nông nghiệp tăng nhanh; có 26 xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 08 xã đạt từ 13-18 tiêu chí, 135 xã đạt từ 7-12 tiêu chí và 65 xã đạt dưới 7 tiêu chí.
Hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại gắn với công tác xúc tiến đầu tư được tăng cường, mở rộng, đặc biệt là quan hệ với các tỉnh của Lào, Đông Bắc Thái Lan, với Đại sứ quán và các tổ chức, doanh nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Canada, Bỉ... Cùng với đó, các chỉ tiêu về An ninh, Quốc phòng, Y tế, Văn hóa, Giáo dục, luôn đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Hà Tĩnh đang nỗ lực phấn đấu để đưa Hà Tĩnh lên những tầm cao mới, hội nhập cùng với sự phát triển của đất nước và thế giới./.
Đơn vị tổ chức: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - UBND tỉnh Hà Tĩnh
Mọi thông tin liên quan liên hệ:
Ông Bùi Đức Hạnh, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh.
Số điện thoại: (039) 6.258.668. Di động: 0913.095.116.
Email: buiduchanhcl@gmail.com.
Các thông tin về những hoạt động Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa Thể giới Đại thi hào Nguyễn Du được đăng tải tại:
Website: http://nguyendu.vn/ và http://sovhttdl.hatinh.gov.vn.
Trân trọng cám ơn và mong nhận được sự hợp tác của các cơ quan thông tấn báo chí Việt Nam và Quốc tế.
Ngày 15.8.2014, Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có công văn số 8467- CV/VPTW về việc tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, trong đó nêu rõ: “Đồng ý chủ trương tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới trong năm 2015. Tỉnh Hà Tĩnh chủ trì tổ chức Lễ kỷ niệm”.
I. Các hoạt động chính:
Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 31.10.2014, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành Kế hoạch số 470/KH-UBND về Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa Thể giới Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015) với chuỗi 6 hoạt động chính, gồm:
1. Tổ chức các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế do Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam chủ trì trong Quý II năm 2015.
2. Xuất bản “Truyện Kiều” do Hội Kiều học Việt Nam khảo đính và chú giải. Ra mắt bản Kiều dịch sang tiến Nga. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm, giới thiệu, xuất bản các tác phẩm của Nguyễn Du, các tác gia dòng họ Nguyễn Tiên Điền và văn học cổ điển Việt Nam, các công trình nghiên cứu, sáng tác có liên quan; tổ chức dịch và xuất bản Truyện Kiều, các tác phẩm của Nguyễn Du và của các nhà văn cổ điển Việt Nam ra nhiều thứ tiếng khác nhau.
3. Xây dựng phim tư liệu, các tác phẩm âm nhạc, hội họa… về thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, tác phẩm của Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đài Truyền hình Việt Nam, các Hãng phim, Đài truyền hình địa phương thực hiện.
4. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi ngâm Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, diễn trò Kiều, nói chuyện về tác phẩm của Nguyễn Du do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Kiều học Việt Nam, các cơ quan báo chí, các trường Đại học khối khoa học xã hội và nhân văn thực hiện.
5. Họp báo về kế hoạch kỷ niệm do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh Hà Tĩnh chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin Truyền Thông thực hiện vào đầu Quý II năm 2015 tại Hà Nội.
6. Tổ chức các hoạt động hưởng ứng kỷ niệm tại Thủ đô Hà Nội là nơi sinh và tại tỉnh Bắc Ninh, quê mẹ của Đại thi hào Nguyễn Du.
II. Đại thi hào Nguyễn Du-thân thế, sự nghiệp
Nguyễn Du (1765-1820), sinh tại kinh thành Thăng Long. Bố là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1776) làm quan Tham Tụng (Tể tướng) dưới triều Lê, mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi giữ chức Tể tướng, Nguyễn Du theo cha về quê, đến năm 13 tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ. Năm 1783, Nguyễn Du thi đậu Tam Trường, được tập ấm chức Chánh thư Hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà (Hà Mỗ) ở Thái Nguyên. Sau đó, Nguyễn Du lấy vợ là bà Đoàn Thị Huệ, người làng An Hải, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình) con gái của tiến sỹ Đoàn Nguyễn Thục. Năm Mậu Thân (1788), khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, Nguyễn Du lánh về nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tại Thái Bình.
Mười năm ở quê vợ là quãng “Mười năm gió bụi”, bao cảnh cơ hàn, bần cực đều đến với Nguyễn Du. Khi bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục mất, người con trai lớn mất, Nguyễn Du cùng người con trai nhỏ Nguyễn Tứ về quê cũ ở xã Tiên Điền. Trở lại quê, dinh cơ của cha đã tan hoang, anh em đôi ngả, Nguyễn Du thốt lên “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh, gia đình không còn, anh em lưu tán), Nguyễn Du được bà con họ tộc chia cho mảnh đất tại thôn Thuận Mỹ làm nhà để ở. Và cũng từ đây, Nguyễn Du có biệt hiệu “Hồng Sơn liệp hộ” (người đi săn ở núi Hồng Lĩnh) và “Nam Hải điếu đồ” (người câu cá ở bể Nam).
Năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được bổ làm Tri huyện Phù Dung (phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam); tháng 11 làm Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (tỉnh Hà Tây). Năm Quý Hợi (1803), được cử cùng phái bộ nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang sắc phong cho vua Gia Long. Mùa thu năm Giáp Tý (1804), Nguyễn Du cáo bệnh về quê. Năm Ất Sửu (1805), được thăng Đông Các Đại học sĩ, tước Du Đức hầu (hàm ngũ phẩm). Tháng 9 năm Đinh Mão (1807) giữ chức giám khảo thi Hương ở Hải Dương, sau xin về quê. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình. Tháng 9 năm Nhâm Tuất (1812), Nguyễn Du xin nghỉ về quê 2 tháng để xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu về kinh, được thăng hàm Cần Chánh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du trở về nước, có tập thơ “Bắc Hành tạp lục” và được vua Gia Long thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Mùa thu năm Kỷ Mão (1819), được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu từ chối, được chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong. Tuy nhiên, chưa kịp thực hiện thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (06.9.1820), Nguyễn Du bị cảm bệnh và mất tại kinh thành Huế, thọ 55 tuổi.
Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán có các tác phẩm: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Về chữ Nôm có các tác phẩm: Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Văn tế Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường nón và đặc biệt là Truyện Kiều, tác phẩm vĩ đại nhất, tập đại thành của văn học cổ Việt Nam đã đưa Nguyễn Du đạt đến tầm vĩ nhân thế giới, đỉnh cao trong nền văn học nước nhà, làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
III. Kiệt tác Truyện Kiều
Kiệt tác "Truyện Kiều" của Nguyễn Du nguyên có tên là “Đoạn trường tân thanh”, nghĩa là “Tiếng nói mới đứt ruột”. Đây là tác phẩm truyện thơ nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh (Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh) Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại nhà thơ đang sống bằng Truyện Kiều.
Tác phẩm gồm 3254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.
Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Về giá trị nhân đạo, "Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Cùng với đó, “Truyện Kiều” còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người.
Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân, đã nhào nặn lại và góp phần nâng cao nó. Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. “Truyện Kiều” là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.
Với những giá trị to lớn ấy, “Truyện Kiều” hàng trăm năm nay được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca nhạc họa sau này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi, trở thành một phần tinh hoa của nhân loại, một biểu tượng của văn hóa Việt Nam đối với thế giới. Đến nay, Truyện Kiều đã được dịch ra trên nhiều thứ tiếng trên thế giới như tiếng Pháp, Anh, Nga, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức, Thụy Điển, Hung, Ý, Mông Cổ…
IV. Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27.9.2012 của Thủ tướng Chính phủ, các hạng mục chính gồm:
Nhà thờ Nguyễn Du: Năm 1824, Nguyễn Ngũ cùng con cháu trong dòng họ đã đưa hài cốt Nguyễn Du về quê nhà cải táng và lập đền thờ ngay trên khu vườn cũ của ông tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ). Khoảng thời gian từ năm 1934 -1935 nhà thờ bị hỏng. Năm 1940, Hội Khai trí Tiến Đức cùng con cháu họ Nguyễn Tiên Điền xây dựng nhà thờ trong khu vườn họ Nguyễn. Năm 2010, nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du được xây dựng mới và khánh thành vào tháng 11 năm 2012.
Nhà Văn thánh-Bình văn: Văn thánh hàng huyện thờ Khổng Tử do Nguyễn Nghiễm xây dựng. Trước đây, mỗi dịp xuân về các bậc nho túc trong vùng về đây báo ơn, bình văn, đọc thơ và tổ chức lễ "cầu khoa" cầu cho con em trong vùng thành danh trên con đường khoa cử.
Đàn tế, bia đá Nguyễn Quỳnh (ông nội Nguyễn Du): Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được phong Tể tướng, ông cùng em trai là Nguyễn Trọng lập đàn tế, dựng bia đá tưởng nhớ công ơn của cha mẹ.
Mộ Đại thi hào Nguyễn Du: Nguyễn Du lâm bệnh và mất tại Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820) thọ 55 tuổi. Phần mộ đặt tại tại cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1824, con là Nguyễn Ngũ và cháu là Nguyễn Thắng dời về cải táng trong vườn nhà tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ). Năm 1826, Nguyễn Ngũ dịch chuyển ra cạnh đó 500m, hai năm sau được chuyển ra khu nghĩa trang tại xứ Đồng Cùng thuộc thôn Tiền Giáp. Với dự án Tôn tạo khu di tích Nguyễn Du bằng nguồn vốn CTMTQG về văn hoá (1999 -2004), khu mộ đã được xây dựng, chỉnh trang lại như hiện nay.
Đền thờ, mộ Nguyễn Nghiễm (1708-1776): Nguyễn Nghiễm là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về con đường cử nghiệp, khoa bảng họ Nguyễn - Tiên Điền. Ông đậu tiến sỹ năm 1731, làm Tế tửu Quốc Tử Giám (1742), giữ chức Tể tướng (1762) và trong gần năm thập kỷ hoạt động trên chính trường Lê - Trịnh đã để lại nhiều trước tác có giá trị như: “Quân trung liện vịnh”, “Xuân đình tạp vịnh”, “Cổ lễ nhạc thi văn” và bài phú Nôm “Khổng Tử mộng Chu Công”... Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ), thuộc thôn Bảo Kệ, xã Tiên Điền và nhân dân thường gọi đây là đền “Đức Đại vương hai”. Phần mộ ông hiện nằm tại thôn Tiên Thanh xã Tiên Điền.
Đền thờ Nguyễn Trọng (1710-1789), là chú ruột của Nguyễn Du, người giỏi về văn thơ, lý, số, y học. Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ)) ở thôn Tiên Quang, xã Tiên Điền. Kiến trúc đơn giản, nội thất còn giữ lại nhiều đồ tế khí, hoành phi câu đối có giá trị. Trước đền thờ có voi, ngựa đá, tấm bia “Tích thiện gia” và trong khuôn viên còn có mộ phần của ông.
Khu lăng Văn Sự: Là khu mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn - Tiên Điền, gồm mộ Nguyễn Thể - bố Nguyễn Quỳnh; Thuật Hiên công Nguyễn Khản; Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn; Chính thất Lê Quý thị (vợ Phương Trạch hầu); Giới Hiên công Nguyễn Huệ và chính thất Nguyễn Quý Thị (vợ Nguyễn Huệ).
Không gian văn hóa Nguyễn Du: Xây dựng vào năm 2000, gồm Tượng đài, Thư viện Nguyễn Du, Hội trường; Nhà thờ, Nhà bảo tàng Nguyễn Du...
V. Lễ Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới.
Với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học nước nhà và sự phát triển văn hóa của nhân loại, tháng 12/1964, tại thành phố Béclin (Đức) Hội đồng Hòa bình thế giới ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du (1675-1965) cùng với 8 danh nhân văn hoá trên toàn thế giới. Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã có Chỉ thị số 112-CT/TW ngày 26.10.1965 "Về việc kỷ niệm Nguyễn Du". Đây là cột mốc lớn trong việc nghiên cứu, khẳng định và tôn vinh Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Từ đó đến nay các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, văn học của Nguyễn Du vẫn được tiến hành và thu nhiều kết quả mới, nhất là vào các dịp kỷ niệm 240 năm, 245 năm Năm sinh của ông.
Lễ kỷ niệm cấp Quốc gia 250 năm Ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới (1765-2015) sẽ được tổ chức vào ngày 5 tháng 12 năm 2015 tại thành phố Hà Tĩnh, do tỉnh Hà Tĩnh chủ trì với sự chỉ đạo, phối hợp của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan TW với sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các đại biểu quốc tế, trong nước. Chương trình gồm phần lễ và Chương trình nghệ thuật Tiếng thơ ai động đất trời do Cục Nghệ thuật biểu diễn Bộ VHTTDL chỉ đạo và Nhà hát Nghệ thuật đương đại việt Nam thực hiện. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên VTV và các Đài THTW và các địa phương.
Trước Lễ kỷ niệm sẽ diễn ra các hoạt động trong Tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du, bắt đầu từ ngày 28.11 đến 05.12.2015 tại quê hương Đại thi hào Nguyễn Du với các nội dung: Liên hoan nghệ thuật quần chúng các tỉnh với chủ đề Tiếng tơ Tiên Điền; Hội thi thuyết minh viên du lịch Hà Tĩnh; Chiếu phim về chủ đề Nguyễn Du và Truyện Kiều và Trưng bày các ấn phẩm văn chương của Đại thi hào Nguyễn Du và Văn phái Hồng Sơn, hiện vật khảo cổ di tích Bãi Cọi triển lãm ảnh về thành tựu kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh và các hoạt động văn hóa văn nghệ khác trên địa bàn toàn tỉnh.
Phát huy truyền thống quê hương, đất nước, đặc biệt là từ ngày có Đảng, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã luôn nỗ lực, đi đầu trong mọi phong trào hành động cách mạng, làm nên phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, cách mạng tháng Tám năm 1945 và đóng góp sức người, sức của cùng cả nước giành thắng lợi trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc.
Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Hà Tĩnh đã có bước phát triển về mọi mặt. Năm 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt gần 24%, thu ngân sách tiếp tục tăng nhanh, bình quân thu nhập đầu người đạt 40 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 5,5%, hộ cận nghèo còn 10,77%.
Các dự án, công trình kinh tế lớn đảm bảo tiến độ. Khu kinh tế Vũng Áng đang trở thành trung tâm điện lực lớn nhất, khu luyện gang thép lớn nhất và khu cảng nước sâu nhất của cả nước. Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đã hoà lưới điện quốc gia tổ máy số 1 tháng 12 năm 2013, tổ máy số 2 vào tháng 11 năm 2014 góp phần vào tăng trưởng công nghiệp năm 2014.
Chương trình xây dựng nông thôn mới ngày càng đi vào chiều sâu và đạt kết quả toàn diện. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao được nhân rộng, số lượng hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực nông nghiệp tăng nhanh; có 26 xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 08 xã đạt từ 13-18 tiêu chí, 135 xã đạt từ 7-12 tiêu chí và 65 xã đạt dưới 7 tiêu chí.
Hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại gắn với công tác xúc tiến đầu tư được tăng cường, mở rộng, đặc biệt là quan hệ với các tỉnh của Lào, Đông Bắc Thái Lan, với Đại sứ quán và các tổ chức, doanh nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Canada, Bỉ... Cùng với đó, các chỉ tiêu về An ninh, Quốc phòng, Y tế, Văn hóa, Giáo dục, luôn đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Hà Tĩnh đang nỗ lực phấn đấu để đưa Hà Tĩnh lên những tầm cao mới, hội nhập cùng với sự phát triển của đất nước và thế giới./.
________________________________________________________________
Đơn vị tổ chức: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - UBND tỉnh Hà Tĩnh
Mọi thông tin liên quan liên hệ:
Ông Bùi Đức Hạnh, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh.
Số điện thoại: (039) 6.258.668. Di động: 0913.095.116.
Email: buiduchanhcl@gmail.com.
Các thông tin về những hoạt động Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa Thể giới Đại thi hào Nguyễn Du được đăng tải tại:
Website: http://nguyendu.vn/ và http://sovhttdl.hatinh.gov.vn.
Trân trọng cám ơn và mong nhận được sự hợp tác của các cơ quan thông tấn báo chí Việt Nam và Quốc tế.