Luật Trí tuệ nhân tạo cần định hình “văn hóa AI”, tôn trọng các giá trị văn hóa, đạo đức, bản sắc dân tộc
22/11/2025 | 16:49Tại phiên thảo luận tổ về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo - đạo luật lần đầu tiên của Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực công nghệ nền tảng, đang và sẽ tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, xây dựng trụ cột thể chế cho kỷ nguyên số, PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Văn hoá – Xã hội đặc biệt quan tâm đến cách đạo luật này định hình “văn hóa AI”, bảo đảm AI phục vụ con người, tôn trọng các giá trị văn hóa, đạo đức, bản sắc dân tộc và quyền con người.
Cần nhấn mạnh rõ hơn chiều sâu văn hóa và quyền con người trong quản trị AI
Đại biểu Bùi Hoài Sơn đánh giá cao Điều 4 của dự thảo Luật đã khẳng định những nguyên tắc "lấy con người làm trung tâm, tôn trọng nhân phẩm, quyền con người, quyền riêng tư và bảo đảm lợi ích công cộng"; "bảo đảm an toàn, công bằng, minh bạch, không thiên lệch, không phân biệt đối xử và không gây hại cho con người hoặc xã hội"; "tuân thủ pháp luật, chuẩn mực đạo đức và giá trị văn hóa Việt Nam, góp phần củng cố trật tự, đạo lý và phát triển xã hội lành mạnh"; đồng thời "thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với phát triển xanh, bao trùm và bền vững, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc".

Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 1 - Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội
Với một đạo luật công nghệ, việc đặt văn hóa, đạo đức, bản sắc và con người ở trung tâm là lựa chọn rất đúng đắn. Điều này phù hợp với tinh thần Hiến pháp, với đường lối của Đảng coi văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực phát triển, đồng thời thể hiện rõ thông điệp: AI phải phục vụ con người chứ không thay thế con người. Từ góc độ văn hóa, đại biểu Bùi Hoài Sơn cho rằng đây chính là nền tảng để chúng ta xây dựng "văn hóa AI" – tức là hệ giá trị, chuẩn mực, lối sống, ứng xử của con người trong một môi trường ngày càng thấm đẫm công nghệ.
Tuy nhiên, để các nguyên tắc này đi vào cuộc sống dễ dàng hơn, đại biểu Bùi Hoài Sơn thống nhất với nhận định của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường là nên cấu trúc lại các nguyên tắc theo nhóm: nhóm về con người và quyền, nhóm về an toàn - rủi ro, nhóm về đạo đức - pháp luật, nhóm về phát triển - hội nhập, nhằm tránh trùng lặp, tăng tính logic và dễ áp dụng cho các chủ thể triển khai. Đồng thời, nên cân nhắc bổ sung rõ nguyên tắc về trách nhiệm giải trình và khả năng truy xuất nguồn gốc đối với hệ thống AI, bảo đảm mọi hệ thống có thể được kiểm toán, giám sát trong suốt vòng đời hoạt động, nhất là trong các lĩnh vực nhạy cảm như báo chí, truyền thông, giáo dục, văn hóa.
Tuy nhiên, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị làm rõ hơn nội dung liên quan đến nhóm yếu thế: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… AI có thể vô tình tái tạo những định kiến giới, định kiến vùng miền, sắc tộc nếu dữ liệu huấn luyện chứa các định kiến đó. Do vậy, trong Điều 4 và các điều về bảo vệ người dùng, cần bổ sung yêu cầu đánh giá tác động văn hóa – xã hội và tác động đối với bình đẳng giới, đối với các nhóm dễ bị tổn thương trong quá trình thiết kế và vận hành hệ thống AI.
Đại biểu bày tỏ tán thành với gợi ý của cơ quan thẩm tra về việc dự thảo Luật cần có quy định riêng về quyền của người sử dụng và người bị ảnh hưởng bởi hệ thống AI, như quyền được biết, quyền yêu cầu con người xem xét lại các quyết định tự động do AI đưa ra. Đây là vấn đề không chỉ mang tính pháp lý mà còn là vấn đề văn hóa: bảo đảm con người luôn giữ quyền kiểm soát, không bị "điều khiển" vô thức bởi các thuật toán trong đời sống hằng ngày.

Đại biểu Bùi Hoài Sơn, Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội
Chính sách của Nhà nước cần nhấn mạnh hơn chiều cạnh văn hóa và năng lực thích ứng xã hội với AI
Điều 5 của dự thảo đã xác định Nhà nước thực hiện chính sách "phát triển trí tuệ nhân tạo trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững đất nước", đồng thời gắn với phát triển xanh, bao trùm, bảo vệ môi trường và "giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc". Báo cáo thẩm tra cũng đề nghị bổ sung những chính sách rất quan trọng như: đẩy mạnh thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ AI tiên tiến nhưng tiềm ẩn rủi ro; bảo đảm quyền tiếp cận dữ liệu lớn chất lượng cao để huấn luyện mô hình; có cơ chế thu hút, đãi ngộ chuyên gia; và đặc biệt là chính sách "đào tạo chuyên sâu và phổ cập kiến thức, kỹ năng số cơ bản, đạo đức AI cho cán bộ, công chức, người dân, nhất là trẻ em" để sử dụng AI an toàn.
Tán thành với các đề xuất này, từ góc nhìn văn hoá, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị dự thảo Luật, ở điều 5 hoặc trong chương về chính sách - cần ghi nhận rõ hơn các định hướng như:
Khuyến khích, ưu tiên ứng dụng AI trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, trong sáng tạo nghệ thuật, trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Đây là những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế về tài nguyên văn hóa, nhưng còn hạn chế về nguồn lực; AI có thể là công cụ hữu hiệu để số hóa di sản, tạo các sản phẩm trải nghiệm mới, nâng cao năng suất sáng tạo.
Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo, startup văn hóa - nghệ thuật ứng dụng AI, ví dụ trong sản xuất phim ảnh, âm nhạc, thiết kế, quảng cáo, du lịch văn hóa…, đồng thời yêu cầu tuân thủ nghiêm các chuẩn mực đạo đức, bản quyền.
Khi nói đến dữ liệu lớn phục vụ huấn luyện AI, cần coi dữ liệu văn hóa - lịch sử, ngôn ngữ, văn học nghệ thuật Việt Nam là một "tài nguyên chiến lược". Chính sách dữ liệu nên tạo điều kiện để các mô hình AI tiếng Việt được tiếp cận kho tàng ngôn ngữ và văn hóa Việt một cách hợp pháp, có kiểm soát, qua đó vừa bảo vệ bản quyền, vừa giúp AI "nói tiếng Việt" tốt hơn, hiểu văn hóa Việt hơn.
Giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để biến AI thành cơ hội nâng tầm văn hóa số của người Việt
Dự thảo Luật dành một điều rất quan trọng về giáo dục và phát triển nhân lực, quy định giáo dục phổ thông "tích hợp nội dung cơ bản về trí tuệ nhân tạo, tư duy tính toán, kỹ năng số và đạo đức công nghệ vào chương trình bắt buộc"; cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học xây dựng chương trình đào tạo về trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu; Nhà nước triển khai "Chương trình quốc gia phát triển nhân lực trí tuệ nhân tạo", bao gồm chính sách đào tạo, học bổng, thu hút và trọng dụng chuyên gia, phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học và nhân lực quản lý trong lĩnh vực này.
Đại biểu Bùi Hoài Sơn đánh giá cao cách tiếp cận này vì đã gắn Luật Trí tuệ nhân tạo với Nghị quyết 71 của Trung ương về về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, cũng như Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW cũng đang được Quốc hội xem xét tại kỳ họp này. Tuy nhiên, từ thực tiễn giáo dục văn hóa, đại biểu cho rằng việc dạy AI trong nhà trường không chỉ là dạy kỹ năng sử dụng công cụ, mà phải là dạy "văn hóa số", "đạo đức công nghệ" và năng lực thẩm định thông tin. Người học cần hiểu những nguy cơ như thông tin sai lệch, thao túng dư luận, lệ thuộc vào máy móc, đánh mất năng lực tư duy độc lập, sáng tạo.
Vì vậy, đề nghị dự thảo Luật bổ sung nhấn mạnh hơn nội dung giáo dục về: quyền riêng tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường AI; tôn trọng quyền tác giả, quyền liên quan, đạo đức sáng tạo khi sử dụng AI trong nghệ thuật; cùng với đó là đào tạo giáo dục về năng lực thẩm mỹ, tư duy phản biện, khả năng phân biệt giữa nội dung do con người tạo ra và nội dung do AI tạo ra, để không đánh đồng mọi thứ, không đánh mất "cái hồn" của văn hóa.
Các nội dung này nên được thiết kế đồng bộ với các chính sách về đào tạo nhân lực trình độ cao, về tự chủ đại học, về hợp tác quốc tế trong giáo dục mà Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù cho giáo dục đang đề cập, trong đó có các nội dung về đào tạo chuyên sâu và các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao thành tích cao.
Tránh khoảng trống và chồng chéo giữa Luật Trí tuệ nhân tạo với các luật chuyên ngành trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, sở hữu trí tuệ
Báo cáo thẩm tra đã chỉ rõ dự thảo Luật cần tiếp tục rà soát, bảo đảm tính thống nhất với các nhóm luật về hạ tầng số, dữ liệu, an ninh, an toàn; về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; về doanh nghiệp, đầu tư, tài chính; về giáo dục; và đặc biệt là nhóm luật liên quan đến đạo đức, xã hội, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý như Bộ luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự…
Tuy nhiên, đại biểu Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh vấn đề quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả đối với sản phẩm do AI tạo ra đang trở thành điểm nóng trên thế giới, đã phát sinh nhiều tranh chấp, nhưng dự thảo Luật hiện nay chưa quy định rõ. Báo cáo thẩm tra cũng đề nghị cần trao đổi với cơ quan soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ để bổ sung quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả và trách nhiệm pháp lý đối với nội dung do AI tạo ra. Cho rằng đây là mối quan tâm sát sườn của giới văn nghệ sĩ, nhà sản xuất văn hóa nghệ thuật, nếu không quy định kịp thời, nghệ sĩ Việt Nam có thể bị thiệt thòi, môi trường sáng tạo văn hóa sẽ trở nên bất ổn, vì vậy đại biểu đề nghị Luật Trí tuệ nhân tạo nên có ít nhất một điều khoản mang tính nguyên tắc, khẳng định mọi ứng dụng AI phải tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, không được sử dụng trái phép dữ liệu huấn luyện từ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh… và giao Luật Sở hữu trí tuệ xử lý chi tiết.
Bên cạnh đó, cần làm rõ hơn trách nhiệm của các nền tảng cung cấp dịch vụ AI, đặc biệt là các nền tảng xuyên biên giới, trong việc tôn trọng pháp luật Việt Nam về báo chí, điện ảnh, an ninh mạng, an toàn thông tin, trẻ em… Nếu không có quy định đủ mạnh, sẽ rất khó khăn khi xử lý các hành vi lan truyền nội dung độc hại do AI tạo ra, từ tin giả cho tới nội dung kích động bạo lực, thù hằn, đồi trụy, xâm hại văn hóa và đạo đức xã hội.

Các đại biểu tham gia phiên họp
Đảm bảo nguồn lực và cơ chế giám sát xã hội để thực thi luật
Tán thành với chủ trương thành lập Ủy ban Quốc gia về trí tuệ nhân tạo, xây dựng Cổng thông tin quốc gia về AI, cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống AI, cùng các cơ chế ưu đãi, quỹ phát triển AI… như dự thảo Luật và Báo cáo thẩm tra nêu, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề xuất cân nhắc kỹ lưỡng về nguồn lực tài chính, nhân lực, phân công, phân cấp trong quá trình thực hiện luật.
Theo đại biểu, trong Ủy ban Quốc gia về AI, nên có sự tham gia thường xuyên, thực chất của các cơ quan phụ trách văn hóa, giáo dục, thông tin, báo chí, quyền con người để bảo đảm các tiêu chí văn hóa – xã hội, quyền con người được lồng ghép ngay từ đầu trong mọi quyết định chính sách về AI.
Bên cạnh đó, cơ chế giám sát việc triển khai Luật không chỉ là giám sát hành chính mà cần có kênh giám sát xã hội: tiếng nói của các hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, giới văn nghệ sĩ, giới học thuật, các nhóm dễ bị tổn thương. Khi ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật cho AI, cần có quy trình tham vấn công khai, tránh "kỹ trị hóa" lĩnh vực này, để những người bị ảnh hưởng trực tiếp có cơ hội lên tiếng.
Luật cũng nên gửi đi một thông điệp rõ ràng về bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng của người dùng và tổ chức tại Việt Nam đối với các nền tảng AI lớn, tránh tình trạng một số doanh nghiệp độc quyền, hạn chế truy cập hoặc thao túng thị trường theo cách gây bất lợi cho người dùng và doanh nghiệp Việt Nam.
Khẳng định trí tuệ nhân tạo là một cơ hội lịch sử để Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển, nhưng cũng là phép thử rất lớn đối với bản lĩnh văn hóa, trí tuệ và năng lực quản trị, đại biểu Bùi Hoài Sơn ủng hộ việc ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo theo hướng luật khung, linh hoạt, coi con người và văn hóa là trung tâm, đồng thời đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu sâu sắc hơn các ý kiến thẩm tra, nhất là những vấn đề liên quan đến giá trị văn hóa, đạo đức, quyền con người, giáo dục, sở hữu trí tuệ và giám sát xã hội. Nếu được hoàn thiện tốt, Luật Trí tuệ nhân tạo sẽ không chỉ là đạo luật về công nghệ, mà còn trở thành một đạo luật nền tảng của kỷ nguyên mới - nơi AI đồng hành cùng con người Việt Nam, cùng văn hóa Việt Nam, trong hành trình vươn lên mạnh mẽ, bền vững và nhân văn./.













