Từ chủ trương đến đời sống: Hành trình đưa chính sách giảm nghèo vào từng gia đình, từng cộng đồng
21/11/2025 | 08:13Những năm gần đây, hành trình giảm nghèo của Việt Nam không chỉ là những con số được tổng hợp qua các báo cáo, mà đã trở thành câu chuyện đời thường, hiện hữu trong từng nếp sinh hoạt của hàng triệu hộ dân trên khắp cả nước.
Từ vùng cao phía Bắc xuống tận đồng bằng sông Cửu Long, từ những bản làng nơi sườn núi đến những xã nghèo ven biển, chính sách giảm nghèo mới – với định hướng “đa chiều, bao trùm và bền vững” – đã thật sự chạm đến đời sống người dân, thổi vào cộng đồng một luồng sinh khí mới.
Khi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chỉ thị số 05-CT/TW về tăng cường lãnh đạo công tác giảm nghèo bền vững được ban hành, nhiều địa phương nhận thức rằng đây không chỉ là nhiệm vụ, mà còn là cơ hội để thay đổi cách làm cũ, khơi dậy tiềm năng ngủ quên ở nhiều vùng đất. Công tác giảm nghèo, từ chỗ chủ yếu hỗ trợ vật chất, nay được triển khai theo hướng nâng cao năng lực cho người dân: dạy họ kỹ thuật sản xuất, giúp họ kết nối thị trường, tạo điều kiện vay vốn, đồng hành trong từng bước của quá trình thay đổi.

Công tác giảm nghèo, từ chỗ chủ yếu hỗ trợ vật chất, nay được triển khai theo hướng nâng cao năng lực cho người dân (Ảnh: BVHTTDL)
Điều dễ nhận thấy đầu tiên là vai trò quan trọng của truyền thông. Nếu như trước đây, nhiều chính sách khó tiếp cận do khoảng cách thông tin, thì nay, sự hiện diện của loa truyền thanh thông minh, các nhóm Zalo thôn bản, các phiên chợ tuyên truyền, hay những buổi sinh hoạt cộng đồng đã khiến thông tin về giảm nghèo trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Ở những xã vùng cao, người dân có thể nghe già làng giải thích từng nội dung chính sách bằng tiếng dân tộc, kết hợp với cán bộ xã hướng dẫn cách ghi chép, cách làm hồ sơ vay vốn. Sự kiên trì này đã giúp người dân hiểu rằng chính sách không phải là thứ gì xa vời, mà là quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng, miễn là họ biết và mạnh dạn tiếp cận.
Trên thực tế, nhiều địa phương đã triển khai những mô hình sinh kế rất phù hợp với đặc thù của từng vùng. Ở các xã nghèo miền núi, mô hình trồng dược liệu, nuôi ong lấy mật, phát triển du lịch cộng đồng đang tạo nên luồng sinh khí mới. Người dân không còn bó buộc trong canh tác nương rẫy theo lối truyền thống, mà đã biết áp dụng kỹ thuật, liên kết với hợp tác xã, ký hợp đồng tiêu thụ với doanh nghiệp. Nhiều hộ nghèo, chỉ sau hai hoặc ba mùa vụ, đã có thể thoát nghèo bền vững nhờ những sản phẩm đặc trưng có giá trị cao như sa nhân, nghệ đen, quế, hồi, chè shan tuyết…

Các mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng biến đổi khí hậu đã tạo nên nguồn thu mới cho các hộ dân (Ảnh: BVHTTDL)
Tại miền Trung đầy nắng gió, các mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng biến đổi khí hậu như nuôi tôm công nghệ cao, nuôi cá lồng bè ven biển, nuôi hàu, nuôi sò huyết, đã tạo nên nguồn thu mới cho các hộ dân vốn quanh năm vật lộn với biển động và thiên tai. Nhiều ngư dân được hỗ trợ chuyển đổi nghề bền vững, từ đánh bắt ven bờ kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản ổn định hơn, vừa bảo vệ nguồn lợi biển vừa nâng cao thu nhập. Nhiều nơi, chính quyền địa phương còn hỗ trợ thiết bị định vị, kiến thức an toàn biển, giúp ngư dân an tâm vươn khơi.
Còn ở Đồng bằng sông Cửu Long, những vùng trước đây vốn chỉ quen với cây lúa nay đã có nhiều thay đổi. Mô hình “lúa – tôm” được người dân áp dụng ngày càng nhiều, giúp tiết kiệm chi phí, cải thiện môi trường và tạo thu nhập cao gấp nhiều lần so với trồng lúa thuần túy. Các mô hình nuôi cá trong ao nổi, cá lồng bè trên sông, hay trồng dừa – trồng xoài hữu cơ được triển khai và nhân rộng, đưa nông sản của người nghèo đến với nhiều thị trường mới.
Thấm nhuần quan điểm “lấy con người làm trung tâm”, các chương trình đào tạo nghề, tư vấn việc làm, hỗ trợ lao động nghèo di chuyển có tổ chức được nhiều tỉnh thành triển khai đồng bộ. Nhiều thanh niên dân tộc thiểu số lần đầu tiên được học nghề bài bản, tham gia làm việc tại các khu công nghiệp hoặc xuất khẩu lao động theo diện hỗ trợ vay vốn. Những đồng lương đầu tiên họ gửi về quê là minh chứng rõ nhất cho hiệu quả của chính sách giảm nghèo thông qua tạo việc làm.
Một điểm đáng chú ý nữa là cách các địa phương đã bắt đầu xây dựng “hồ sơ hộ nghèo điện tử”, ghi nhận đầy đủ thông tin về tình trạng thu nhập, mức thiếu hụt dịch vụ xã hội, nhu cầu hỗ trợ, mức độ rủi ro thiên tai… để thiết kế gói hỗ trợ phù hợp với từng hộ dân. Điều này giúp tránh tình trạng hỗ trợ trùng lặp hoặc “cho không đúng người”, đồng thời làm rõ trách nhiệm của người thụ hưởng.
Chuyển biến lớn trong tinh thần người dân
Nhưng có lẽ, những chuyển biến rõ nhất đến từ chính tinh thần của người dân. Những cuộc trò chuyện ở thôn bản cho thấy sự thay đổi tích cực: người dân không còn hỏi “Nhà nước hỗ trợ gì?”, mà hỏi “Làm thế nào để mình phát triển?”.

Người dân giờ đây đã biết cách sản xuất, tiết kiệm và hướng tới mục tiêu lớn hơn (Ảnh: BVHTTDL)
Một số hộ từng thuộc diện nghèo nhiều năm, nay chính là những người đi tuyên truyền, chia sẻ lại cách làm ăn cho hàng xóm. Họ nói về kế hoạch sản xuất, về cách ghi chép kinh tế hộ, về việc gửi tiết kiệm, về mục tiêu cho con cái học hành đến nơi đến chốn. Khi một hộ nghèo thoát nghèo bền vững, đó không chỉ là thành công của riêng họ mà còn là thành công của cộng đồng.
Vai trò của cộng đồng trong giám sát, bình xét hộ nghèo cũng được củng cố. Nhiều thôn bản tổ chức họp dân hằng năm để rà soát, tránh tình trạng “nghèo ảo” hoặc bỏ sót hộ khó khăn thật sự. Cái hay của mô hình này là chính người dân, bằng sự hiểu biết về nhau, đã giúp công tác giảm nghèo trở nên minh bạch, công bằng và có trách nhiệm hơn.
Ấn tượng hơn cả là sự đồng hành của các tổ chức đoàn thể. Hội Phụ nữ triển khai mô hình tổ tiết kiệm, tổ vay vốn giúp nhau thoát nghèo. Đoàn Thanh niên tổ chức tập huấn kỹ thuật, khởi nghiệp xanh. Hội Nông dân hỗ trợ cây – con giống, tổ chức mô hình sản xuất theo nhóm. Mặt trận Tổ quốc vận động xây dựng nhà đại đoàn kết, hỗ trợ quỹ “Vì người nghèo”. Những hoạt động tưởng như nhỏ bé ấy lại tạo nên sức mạnh nội sinh vô cùng lớn.
Tất cả những chuyển biến ấy chứng minh rằng, khi chủ trương đúng đắn của Đảng được triển khai đến nơi đến chốn, khi chính sách của Nhà nước được truyền đạt đúng cách, và khi người dân được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, thì giảm nghèo bền vững không chỉ là mục tiêu, mà trở thành hiện thực trong từng nếp nhà, từng cộng đồng.
Con đường phía trước vẫn còn nhiều thử thách: biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên, thay đổi thị trường lao động, dịch bệnh bất ngờ… Nhưng những bài học quý từ thực tiễn mỗi ngày đang cho thấy rằng, với niềm tin, sự đồng lòng và nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị và người dân, mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau” hoàn toàn có thể đạt được.
Giảm nghèo bền vững không chỉ là hành trình của những con số đi xuống, mà là hành trình của những ánh mắt hy vọng, của những nụ cười trên cánh đồng mới thu hoạch, của tiếng trẻ em đến trường đầy đủ hơn, của những gia đình tự tin lập nghiệp ngay trên mảnh đất quê mình. Đó chính là thành quả và cũng là động lực để Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường phát triển bao trùm và nhân văn.












