Thiết kế Chương trình MTQG mới: Kế thừa 20 năm thực tiễn, đảm bảo phân cấp mạnh
03/11/2025 | 16:26Chính phủ vừa gửi tới Quốc hội báo cáo chi tiết về chủ trương đầu tư Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026-2035. Cơ quan soạn thảo khẳng định, cấu trúc mới sẽ được thiết kế khoa học thành hai Hợp phần và các nhóm nội dung cụ thể, tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật hiện hành và các Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, hướng tới mô hình quản lý đột phá: chuyển từ quản lý theo đầu vào sang quản trị theo kết quả.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), cơ quan chủ trì soạn thảo, đã nêu rõ cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thiết kế Chương trình MTQG hợp nhất. Cấu trúc mới này được khẳng định là phù hợp với các quy định của Luật Đầu tư công, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các Nghị quyết của Quốc hội và các Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

Quá trình thiết kế này không phải là sự khởi đầu, mà là sự kế thừa có chọn lọc và đã được kiểm chứng qua thực tiễn sâu rộng. Mô hình này đúc kết kinh nghiệm hơn 20 năm triển khai thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và giảm nghèo bền vững, cùng với 15 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Việc tổ chức theo nhóm hợp phần và nhóm nội dung thể hiện tính ổn định, hiệu quả và khả năng tích hợp cao giữa các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chỉ đạo, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện.
Chương trình MTQG hợp nhất có phạm vi rộng lớn, đa ngành, đa mục tiêu, liên quan đến nhiều chủ thể, và được triển khai trên phạm vi cả nước. Đặc biệt, chương trình có nhiều nhóm đối tượng đặc thù là người dân sinh sống trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Vì lẽ đó, cấu trúc theo các nhóm nội dung là cần thiết, giúp hệ thống hóa nhiệm vụ theo trục mục tiêu rõ ràng, tạo thuận lợi cho việc phân công trách nhiệm và điều phối triển khai giữa Trung ương và địa phương. Đồng thời, cách tiếp cận này tạo cơ sở vững chắc để thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành, liên cấp, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh - xã) đang được triển khai.

Việc thiết kế Chương trình hợp nhất theo hợp phần và các nhóm nội dung là bước đi chiến lược nhằm làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, cơ quan chủ trì và đơn vị thụ hưởng. Điều này không chỉ phù hợp với yêu cầu phân cấp mạnh cho địa phương trong quản lý, tổ chức thực hiện, mà còn bảo đảm thống nhất chỉ đạo, điều hành từ Trung ương, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm giải trình trong quá trình thực hiện.

Mô hình nhóm nội dung còn góp phần tăng cường tính liên kết vùng, liên ngành và huy động mạnh mẽ sự tham gia của doanh nghiệp, cộng đồng, tổ chức xã hội trong triển khai Chương trình. Cách tiếp cận này thúc đẩy đổi mới phương thức tổ chức thực hiện theo hướng hợp tác công - tư, phát triển bao trùm và bền vững, qua đó phát huy hiệu quả tổng thể và tránh chồng chéo nhiệm vụ.
Đặc biệt, tổ chức Chương trình theo hợp phần và các nhóm nội dung cho phép gắn trực tiếp các nhiệm vụ, hoạt động với hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu kết quả cụ thể. Các mục tiêu này gắn liền với hệ thống mục tiêu đã được Quốc hội phê duyệt cho giai đoạn 2021-2030 về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cũng như Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu chuyển đổi căn bản từ quản lý theo đầu vào sang quản trị theo kết quả, thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách thể chế và đổi mới sáng tạo trong quản lý chương trình. Cách tiếp cận này đồng thời thống nhất với các định hướng lớn về phát triển khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được nêu tại các Nghị quyết số 57, 66 và 68 của Bộ Chính trị.

Từ các phân tích toàn diện, cơ quan soạn thảo khẳng định thiết kế Chương trình giai đoạn 2026-2035 theo cấu trúc chia làm hai Hợp phần và các nhóm nội dung, nội dung cụ thể là phương án tối ưu. Mô hình này đảm bảo tính kế thừa, tính đồng bộ và khả năng triển khai hiệu quả, bền vững trên phạm vi toàn quốc, đồng thời khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp về các nội dung đầu tư.
Hợp phần thứ nhất sẽ tập trung vào Xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035. Hợp phần này sẽ hỗ trợ cho các địa phương thực hiện các mục tiêu về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, chủ yếu triển khai trọng tâm, trọng điểm cho các đối tượng nằm ngoài vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Hợp phần thứ hai là Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026-2035. Hợp phần này được thiết kế để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và bền vững, tập trung cho các xã, thôn, bản khó khăn nhất, giải quyết các vấn đề bức xúc, cấp bách nhất, ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo, dân tộc thiểu số khó khăn nhất, nhằm thu hẹp khoảng cách so với bình quân chung của cả nước. Hợp phần này kế thừa các nội dung của Chương trình MTQG phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn trước, có bổ sung nhiệm vụ để đồng bộ với mục tiêu chung.

Chương trình đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ, với thiết kế nội dung của các hợp phần khoa học, cụ thể gắn với phân công nhiệm vụ theo quan điểm tránh chồng chéo. Đặc biệt quan trọng là sự thống nhất phân công nhiệm vụ quản lý và tổ chức thực hiện hợp phần, các nội dung của Chương trình theo địa bàn, đảm bảo trên một địa bàn cấp xã chỉ phân bổ vốn từ một hợp phần duy nhất. Điều này sẽ ưu tiên nguồn lực cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã nghèo.
Chương trình mới sẽ phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chủ chương trình, các bộ, cơ quan trung ương và chính quyền địa phương, đảm bảo thuận lợi cho phân công nhiệm vụ, tổ chức thực hiện, giám sát và đánh giá, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh - xã).
Về phân bổ vốn, Chương trình sẽ không quy định nguồn lực cụ thể cho từng nội dung thành phần, nội dung cụ thể. Thay vào đó, căn cứ tổng vốn ngân sách trung ương được giao 5 năm và hằng năm, địa phương sẽ chủ động xác định, lựa chọn nội dung ưu tiên, xây dựng phương án phân bổ vốn ngân sách trung ương, bố trí vốn ngân sách địa phương và huy động các nguồn lực hợp pháp khác để tập trung thực hiện, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững được giao.

Do tính chất đặc thù với phương pháp tiếp cận các nội dung của Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững như một cuộc vận động lớn trên toàn quốc để làm cơ sở để triển khai thực hiện các nội dung thành phần nhằm đạt được mục tiêu đề ra, vì vậy cơ cấu vốn của Hợp phần thứ nhất có tỷ trọng lớn là nguồn vốn địa phương, vốn lồng ghép và vốn tín dụng đi kèm một phần vốn mồi, mang tính dẫn dắt được bố trí từ ngân sách trung ương.
Với tính chất là một Chương trình MTQG đặc thù dành riêng cho vùng đồng bào DTTS và MN. Nguồn vốn của Hợp phần thứ hai được cân đối trên cơ sở kết quả thực hiện Chương trình giai đoạn I (2021-2025), đề xuất về nhu cầu vốn của các địa phương, bộ và cơ quan trung ương, Chính phủ báo cáo Quốc hội đề xuất tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình giai đoạn 2026-2030 tăng khoảng 15% so với giai đoạn 2021-2025. Do Hợp phần thứ hai được triển khai trên địa bàn các xã, thôn bản vùng đồng bào DTTS và MN, các địa phương còn gặp nhiều khó khăn nên nguồn vốn chủ yếu sẽ từ ngân sách trung ương.
Việc xác định thứ tự ưu tiên đầu tư được đặt trong tổng thể mục tiêu của Chương trình giai đoạn 2026-2035, bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, năng lực cân đối ngân sách và khả năng hấp thụ vốn của các địa phương. Trên cơ sở tổng kết kết quả thực hiện các giai đoạn trước, việc đầu tư thực hiện Chương trình giai đoạn mới được xác định theo các định hướng: Định hướng thứ nhất là ưu tiên tuyệt đối hỗ trợ địa bàn các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi điều kiện hạ tầng, dịch vụ cơ bản và sinh kế người dân còn hạn chế, và khả năng huy động nguồn lực thấp.

Định hướng thứ nhất là ưu tiên tuyệt đối hỗ trợ địa bàn các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
Định hướng thứ hai là tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, những công trình phục vụ trực tiếp cho đời sống và sản xuất của người dân trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực nông thôn. Các hạng mục được ưu tiên bao gồm giao thông, điện, nước sạch, thủy lợi nhỏ, viễn thông, hạ tầng số cơ sở. Các hạng mục xã hội như cơ sở y tế, giáo dục, văn hóa - thể thao sẽ được đầu tư từ các Chương trình khác, đảm bảo nguyên tắc không chồng lắp.
Định hướng thứ ba là ưu tiên các công trình, dự án có tính lan tỏa, liên kết vùng và đa mục tiêu, nhằm tạo ra hiệu ứng kép. Các dự án này phải vừa phục vụ hạ tầng - sinh kế - xã hội - môi trường, vừa thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và thích ứng biến đổi khí hậu, đưa các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) vào thực tiễn đời sống nông thôn.

Định hướng thứ tư là bảo đảm tính kế thừa và phát huy hiệu quả đầu tư giai đoạn trước, kết hợp giữa hoàn thiện hạ tầng cơ bản, nâng cao chất lượng dịch vụ công nhằm phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực nông thôn và phát triển mô hình nông thôn mới, tiến tới hiện đại, thông minh.
Cuối cùng, việc thực hiện điều phối thống nhất giữa các Chương trình MTQG, chương trình, dự án và nguồn vốn có cùng mục tiêu trên địa bàn, bảo đảm sự đồng bộ, tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả đầu tư, luôn đi kèm với cơ chế giám sát, đánh giá, công khai và minh bạch việc sử dụng nguồn lực, củng cố lòng tin của người dân và cộng đồng.

Chương trình MTQG hợp nhất được xây dựng với lộ trình rõ ràng, chia làm hai giai đoạn với trọng tâm khác nhau, phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Trong giai đoạn 2026-2030, chương trình sẽ tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực có tác động trực tiếp đến chất lượng sống và khả năng tiếp cận dịch vụ của người dân trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, người dân sinh sống ở khu vực nông thôn. Các lĩnh vực ưu tiên bao gồm hạ tầng thiết yếu, sinh kế, giảm nghèo đa chiều, chuyển đổi số cơ sở, phát triển hạ tầng xã hội và môi trường nông thôn. Mục tiêu chính của giai đoạn này là phấn đấu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền một cách căn bản và hoàn thành cơ bản các mục tiêu của Chương trình giai đoạn 2026-2030.
"Chương trình sẽ không quy định nguồn lực cụ thể cho từng nội dung thành phần, nội dung cụ thể. Đây là sự linh hoạt chưa từng có, thể hiện sự tin tưởng vào năng lực quản lý và tính chủ động của địa phương"
Sang giai đoạn 2031-2035, trọng tâm đầu tư sẽ có sự dịch chuyển chiến lược. Chương trình sẽ chuyển trọng tâm đầu tư trọng điểm cho những địa bàn khó khăn ở khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gắn với đầu tư có chiều sâu, đẩy mạnh hiện đại hóa nông thôn, phát triển nông nghiệp sinh thái, hạ tầng xanh, logistics nông sản, mô hình nông thôn thông minh, và dịch vụ văn hóa - xã hội chất lượng cao. Mục tiêu lớn nhất của giai đoạn này là phấn đấu rút ngắn đáng kể khoảng cách phát triển giữa địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với khu vực khác trong cả nước và hoàn thành 100% các mục tiêu của Chương trình giai đoạn 2031-2035.
Toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện, từ phân bổ vốn đến giám sát dự án, sẽ ưu tiên lồng ghép các yêu cầu phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tư nhân và cải cách thể chế. Các yêu cầu này được đảm bảo phù hợp đặc thù của các địa phương, tạo điều kiện tổ chức thực hiện linh hoạt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm và bền vững, tạo đà cho một thập kỷ phát triển mới của nông thôn Việt Nam.












