Sức hóa giải của văn hóa đưa đồng bào DTTS thoát khỏi đói nghèo
14/07/2025 | 13:50Dự án 6 (2021-2025) đã chứng minh: Đầu tư vào bảo tồn không phải là chi phí, mà là chiến lược kinh tế thông minh. Với hơn 3.160 tỷ đồng, các giá trị truyền thống đang được 'mã hóa' thành sản phẩm du lịch, tạo sinh kế và đưa đồng bào DTTS thoát khỏi đói nghèo từ chính di sản của mình.

Văn hóa từ lâu đã được xem là "sức mạnh nội sinh", là nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN), văn hóa truyền thống còn phải gánh thêm một sứ mệnh kép: trở thành động lực kinh tế để phát triển du lịch, tạo sinh kế và trực tiếp giải quyết vấn đề đói nghèo.
Việt Nam, với 54 dân tộc anh em, sở hữu một kho tàng di sản văn hóa khổng lồ, là tài nguyên vô giá. Song, thách thức đặt ra là làm thế nào để bảo tồn được sự đa dạng này trong bối cảnh hội nhập, đồng thời "chuyển hóa" giá trị văn hóa thành nguồn thu nhập bền vững cho cộng đồng.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025, đặc biệt là Dự án 6: "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch", đã được triển khai như một lời giải căn cơ và đồng bộ cho bài toán này. Đây không chỉ là một dự án đầu tư mà là một cuộc "cách mạng" về tư duy, đặt văn hóa vào vị trí trung tâm của chiến lược xóa đói giảm nghèo và phát triển du lịch cộng đồng.
Việc đầu tư, bảo tồn văn hóa không còn là câu chuyện đơn lẻ mà đã trở thành một chiến lược quốc gia với nguồn vốn và kế hoạch cụ thể. Dự án 6 đã huy động một tổng nguồn vốn ngân sách trung ương lên đến 3.160 tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025, cho thấy quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc biến tiềm năng văn hóa thành sức mạnh kinh tế.
Nếu các dự án bảo tồn trước đây thường tập trung vào những di sản lớn, thì Dự án 6 đi sâu vào xây dựng các mô hình cụ thể, thiết thực tại cơ sở, biến người dân thành chủ thể của hoạt động bảo tồn và kinh doanh văn hóa.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức xây dựng 36 mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. Các mô hình này được phân loại rõ ràng. 4 mô hình trải nghiệm văn hóa đặc thù được hình thành, cho phép du khách trực tiếp tìm hiểu và tham gia vào đời sống văn hóa. Ví dụ nổi bật là mô hình trải nghiệm văn hóa phi vật thể của dân tộc Dao ở xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, hay mô hình Câu lạc bộ hát Soóng Cọ của người Sán Chỉ gắn với phát triển du lịch tại Quảng Ninh.
7 mô hình bảo tồn, phát huy văn hóa phi vật thể tập trung vào việc khôi phục các giá trị nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Cụ thể như mô hình bảo tồn, phát huy múa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Chay (nhóm Cao Lan) tại Tuyên Quang, hay nghệ thuật múa khèn của dân tộc Mông tại Bắc Kạn, góp phần làm phong phú thêm sản phẩm du lịch.
Đặc biệt quan trọng là 11 mô hình "di sản kết nối gắn với các hành trình du lịch di sản". Việc kết nối các di sản tương đồng theo tuyến đã tạo ra các tour du lịch văn hóa liên vùng hấp dẫn. Điển hình là việc kết nối Di sản văn hóa phi vật thể "Nghệ thuật Khèn của người Mông" trong hành trình du lịch liên tỉnh Hà Giang - Lào Cai, hay kết nối di sản "Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên". Các mô hình này chứng minh văn hóa truyền thống có thể kiến tạo chuỗi giá trị du lịch bền vững.

Để du lịch văn hóa phát triển, cơ sở vật chất phải đồng bộ. Dự án 6 đã hỗ trợ cải tạo, nâng cấp 69 điểm đến du lịch tiêu biểu vùng DTTS&MN. Sự hỗ trợ này bao gồm việc xây dựng nhà trưng bày, trung tâm thông tin du lịch, nhà vệ sinh đạt chuẩn, trang bị nhạc cụ, đạo cụ biểu diễn và lắp đặt biển chỉ dẫn, giúp các điểm đến trở nên chuyên nghiệp và hấp dẫn hơn.
48 làng, bản truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số được hỗ trợ đầu tư xây dựng, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống, hình thành mô hình khai thác, phát huy tiềm năng từ văn hóa truyền thống của các dân tộc; từ đó nhân rộng, phát triển để xây dựng các bản văn hóa - du lịch, điểm văn hóa - du lịch, tạo đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các địa phương. Các làng, bản này được hỗ trợ kinh phí để đồng thời bảo tồn giá trị văn hóa vật thể (công trình kiến trúc, cảnh quan không gian); bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể (dân ca, dân vũ; lễ hội truyền thống; trang phục truyền thống; nghề thủ công; văn hóa ẩm thực…) và hỗ trợ phát triển du lịch thông qua hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển thương hiệu du lịch của địa phương.

Về mặt di sản phi vật thể, ở cấp Trung ương,15 lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số đã được tổ chức bảo tồn tại nhiều tỉnh thành như Lào Cai, Hà Giang, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế. 124 lễ hội truyền thống tại các địa phương được bảo tồn, phục dựng, phát huy để khai thác, xây dựng sản phẩm phục vụ phát triển du lịch, trong đó có những lễ hội đặc sắc, tiêu biểu đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Qua đó, góp phần khuyến khích các chủ thể văn hóa người dân tộc thiểu số giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của mình; tạo nguồn cảm hứng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của các cộng đồng dân tộc thiểu số; xây dựng và phát triển du lịch văn hóa, góp phần tăng thu nhập cho cộng đồng và thúc đẩy sự hiểu biết, giao lưu giữa các dân tộc.
5 mô hình bảo tàng sinh thái được hỗ trợ đầu tư xây dựng nhằm bảo tàng hóa di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, hướng tới phát triển cộng đồng và phát triển du lịch tại các địa phương ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ninh, Bắc Giang và Kon Tum.
Một nhiệm vụ nhân văn và cấp thiết là khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số có dân số ít người (14 dân tộc có khó khăn đặc thù) như Lự, Bố Y, Cờ Lao, Mảng, Lô Lô… Dự án đã thiết kế các chương trình riêng, hướng đến bảo tồn toàn diện các giá trị văn hóa phi vật thể của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất này. Đây là sự đầu tư không chỉ vì kinh tế mà còn vì sự đa dạng văn hóa quốc gia.

Kết quả đầu tư của Dự án 6 đã lan tỏa sâu rộng, tạo nên những tác động tích cực về nhiều mặt, từ kinh tế, xã hội đến củng cố bản sắc văn hóa cộng đồng.
Mục tiêu lớn nhất của việc gắn bảo tồn văn hóa với du lịch là chuyển đổi sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Theo Bộ VHTTDL, các hoạt động bảo tồn văn hóa gắn với du lịch đã trực tiếp tạo cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương thông qua các dịch vụ du lịch. Việc cải tạo, nâng cấp 69 điểm đến du lịch đã góp phần chuyển đổi sinh kế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân tộc tham gia vào các chuỗi du lịch, qua đó tạo điều kiện cho đồng bào vùng DTTS nâng cao chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm nghèo.
Chương trình đã tổ chức 347 lớp tập huấn với trên 16.350 lượt người tham gia. Các lớp học này không chỉ truyền dạy văn hóa phi vật thể mà còn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ du lịch, bao gồm kỹ năng giao tiếp, ứng xử, đón tiếp phục vụ khách du lịch, kỹ năng chế biến món ăn và phục vụ lưu trú. Đây là yếu tố then chốt giúp cộng đồng có đủ năng lực tự quản lý và kinh doanh dịch vụ du lịch văn hóa.
"Tác động lớn nhất của Dự án 6 chính là củng cố bản sắc riêng và làm cho đồng bào DTTS tự hào hơn về nguồn gốc, truyền thống và di sản của mình", Bộ VHTTDL đánh giá. Cụ thể, dự án đã hỗ trợ đa dạng các hoạt động nhằm phát huy vai trò làm chủ về văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Các di sản văn hóa truyền thống được kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa một cách đồng bộ và hệ thống. Các Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú người DTTS được hỗ trợ, tạo điều kiện trong việc lưu truyền, phổ biến hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống và đào tạo, bồi dưỡng những người kế cận.

Hàng loạt câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian, đội văn nghệ truyền thống tại thôn, bản được thành lập, duy trì hoạt động hiệu quả (695 câu lạc bộ và 5.760 đội văn nghệ truyền thống) với sự tham gia của đông đảo nghệ nhân, già làng, trưởng bản, người có uy tín và đồng bào dân tộc thiểu số. Các câu lạc bộ, đội văn nghệ được hỗ trợ nhiều nội dung thiết thực: dàn dựng, trang phục, đạo cụ, nhạc cụ, trang thiết bị âm thanh, ánh sáng… đáp ứng nhu cầu tập luyện, biểu diễn và hưởng thụ văn hóa tinh thần cho đồng bào địa phương. Qua đó, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nghi thức truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số được giới thiệu, quảng bá rộng rãi, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của văn hóa truyền thống.
Bên cạnh đó, dự án còn tác động tích cực đến các vấn đề xã hội quan trọng, góp phần làm giảm khoảng cách giới, tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ người DTTS đối với các dịch vụ văn hóa, thông tin, du lịch và từng bước giảm thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Phụ nữ DTTS đóng vai trò quan trọng trong giữ gìn và truyền lại những tri thức, phong tục, tập quán, lễ nghi. Họ là người tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ văn hóa, đội văn nghệ, tham gia các lớp truyền dạy, bảo tồn nghề thủ công truyền thống…

Sau 5 năm triển khai, Dự án 6 đã đạt được những thành tựu ấn tượng, vượt các chỉ tiêu quan trọng do Quốc hội đề ra.
Tính đến cuối giai đoạn I, các chỉ tiêu chính đã được hoàn thành vượt mức: 93,8% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng và 66,1% thôn có đội văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ) truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng (mục tiêu Quốc hội đề ra lần lượt là 80% và 50%). Những con số này là minh chứng rõ ràng nhất cho hiệu quả đầu tư và sự hưởng ứng tích cực từ cộng đồng.
Bên cạnh các kết quả đạt được, quá trình triển khai vẫn còn những tồn tại nhất định, đặc biệt liên quan đến vấn đề giải ngân và cơ chế chính sách. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn, việc triển khai và giải ngân vốn vẫn còn gặp khó khăn, vướng mắc, khiến tiến độ thực hiện Dự án 6 ở một số địa phương còn chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do các địa phương gặp khó khăn trong việc áp dụng các quy định về quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình MTQG.
Thực tiễn cho thấy cần có những văn bản hướng dẫn chi tiết hơn. Do đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang khẩn trương nghiên cứu, ban hành các Thông tư quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc thiểu số, cũng như định mức tổ chức các chương trình văn hóa nghệ thuật. Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc và sự thống nhất trong tổ chức thực hiện.

Để tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn II (2026-2030) sẽ tiếp tục triển khai Dự án 6. Tuy nhiên, tầm nhìn đã được mở rộng đáng kể.
Theo đó, Chương trình tiếp tục khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch, đồng thời nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, thể thao cho người dân.
Đồng thời đề xuất mở rộng địa bàn, đối tượng đầu tư đến các thôn, xã không thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhưng còn có đồng bào dân tộc thiểu số gặp khó khăn. Điều này thể hiện sự linh hoạt và tính nhân văn của chính sách, nhằm đảm bảo không bỏ sót bất kỳ nhóm dân tộc khó khăn nào.
Bên cạnh đó sẽ tập trung vào việc tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá để kịp thời giải quyết, xử lý, khắc phục những hạn chế. Mục tiêu là đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn, đảm bảo nguồn lực được sử dụng hiệu quả và đúng mục đích.
Dự án 6 "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch" đã chứng minh: Bằng cách đầu tư bài bản, đồng bộ vào việc bảo tồn di sản, xây dựng mô hình du lịch cộng đồng, nâng cao năng lực cho người dân và thúc đẩy sự tham gia tích cực của cộng đồng, văn hóa truyền thống đã thực sự trở thành "cây cầu" kết nối truyền thống với hiện đại, bảo tồn với phát triển.
Con đường phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo vùng DTTS&MN chính là con đường đi từ bản sắc, niềm tự hào và sự tự chủ của cộng đồng. Dự án 6 đã mở ra một kỷ nguyên mới, nơi văn hóa là nguồn vốn vô tận, đảm bảo rằng sự phát triển kinh tế đi đôi với sự vẹn nguyên và phong phú của bản sắc dân tộc Việt Nam.












