Văn hóa

Cỡ chữ
A A
Từ viết tắt Đọc bài viết
× Đọc bài viết Tạm dừng Đọc tiếp Dừng đọc Đang tải...
Vui lòng chờ giây lát
× Bài viết không có file audio
Tương phản

Rơ Măm: Bản sắc giữa biên thùy và hành trình phục hồi văn hóa cổ xưa

09/12/2025 | 08:08

Là một trong ba dân tộc thiểu số ít người nhất Việt Nam, người Rơ Măm ở làng Le, xã Mô Rai, tỉnh Quảng Ngãi vẫn kiên cường giữ gìn kho tàng văn hóa đậm nét cổ truyền. Nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và nội lực của cộng đồng, bản sắc Rơ Măm đang được phục hồi mạnh mẽ, tiếp thêm sức sống mới cho vùng biên viễn.

Dân tộc Rơ Măm, với dân số chỉ khoảng gần 690 người (theo điều tra năm 2019), là một trong ba dân tộc có số lượng ít nhất tại Việt Nam. Cộng đồng này sinh sống tập trung chủ yếu tại làng Le, xã Mô Rai, tỉnh Quảng Ngãi. Mô Rai là xã biên giới vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, nằm ở độ cao trung bình từ 500 đến 1.500m so với mực nước biển, cách trung tâm TP. Kon Tum 130km. Làng Le hiện có 177 hộ/617 khẩu, với đồng bào Rơ Măm chiếm tới 88% dân số, thuộc nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù của cả nước. Mặc dù số lượng ít ỏi, người Rơ Măm đã và đang góp phần quan trọng trong việc làm thay đổi diện mạo vùng biên giới này, không chỉ bằng sự cần cù trong lao động mà còn bằng việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo, thiêng liêng.

Trước đây, đời sống người Rơ Măm vô cùng khó khăn do đường giao thông đến bản làng cách trở, người dân hoàn toàn dựa vào làm nương rẫy theo lối sản xuất tự cung, tự cấp. Tuy nhiên, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã tăng cường quan tâm thực hiện nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ đối với các dân tộc thiểu số rất ít người. Người Rơ Măm ở tỉnh Quảng Ngãi (trước tháng 7/2025 là tỉnh Kon Tum) được thụ hưởng Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2025, với tổng kinh phí gần 91 tỷ đồng. Đề án đặt mục tiêu xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng làng Le, phấn đấu theo định hướng tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Nhờ sự quan tâm đầu tư này, diện mạo làng Le đã thay đổi rõ rệt: các trục giao thông chính trong làng đã được cứng hóa, giao thông thông suốt đến trung tâm xã, huyện, tỉnh; điện lưới đã đến tận hộ dân; hệ thống nước sinh hoạt, kênh mương thủy lợi được đầu tư phục vụ sản xuất và đời sống.

Rơ Măm: Bản sắc giữa biên thùy và hành trình phục hồi văn hóa cổ xưa - Ảnh 1.

Kiến trúc Làng và Nhà Rông linh thiêng

Đời sống vật chất của người Rơ Măm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ với cộng đồng và thiên nhiên thông qua những nét văn hóa cổ truyền đặc sắc. Ngôn ngữ của người Rơ Măm thuộc nhóm Môn-Khmer, một nhánh trong ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic). Tiếng Rơ Măm là phương tiện chính để truyền tải tri thức dân gian, luật tục và các làn điệu dân ca truyền thống.

Kiến trúc làng của họ mang tính cố định và trật tự cao, được bố trí theo hình bầu dục hoặc hình tròn. Làng có nhiều cổng, nhưng chỉ một cổng chính mở ra hướng Bắc. Nổi bật nhất là Nhà Rông uy nghiêm được dựng ngay giữa làng, đóng vai trò là "linh hồn", trung tâm sinh hoạt cộng đồng và văn hóa. Quần tụ quanh Nhà Rông là những ngôi nhà sàn dài của các gia đình, với một nét độc đáo là cửa chính của mọi ngôi nhà đều hướng về Nhà Rông, tạo nên sự gắn kết và tinh thần tôn kính đối với không gian thiêng liêng này.

Sự mộc mạc tiếp tục được thể hiện qua trang phục cổ truyền. Người Rơ Măm không có tập quán tạo màu nền, nên các loại váy quấn, áo cộc tay (nữ), khố, áo, tấm choàng (nam) phần lớn đều được làm bằng vải mộc màu trắng/kem do tự dệt. Sự giản dị này phản ánh sự gần gũi và tôn trọng nguyên liệu tự nhiên.

Về ẩm thực, gạo nếp là lương thực chính, được coi trọng hơn gạo tẻ. Mặc dù ngày nay đã biết trồng lúa nước, nhưng cơm nếp nấu trong ống tre, nứa vẫn là món ăn không thể thiếu. Người Rơ Măm tin rằng kỹ thuật nấu ăn này giúp thức ăn có vị đậm đà, thơm mùi núi rừng. Trong các bữa ăn, món ăn ống này thường được dùng kèm với canh và muối ớt. Thức uống thường ngày là nước lã, trong khi rượu cần là loại thức uống không thể thiếu trong các nghi lễ, lễ hội hoặc những dịp sum vầy của cộng đồng.

Rơ Măm: Bản sắc giữa biên thùy và hành trình phục hồi văn hóa cổ xưa - Ảnh 2.

Hệ thống nghi lễ và lễ hội phong phú

Ba lễ hội quan trọng nhất của người Rơ Măm, phản ánh chu kỳ sản xuất lúa rẫy và tín ngưỡng phồn thực, đó là: Lễ hội chọc tỉa (Et Choi), Lễ cúng mừng lúa lên đòng (Et Arah) và Lễ cúng mừng lúa mới (Et Nhu). Lễ cúng mừng lúa mới (Et Nhu), diễn ra sau khi thu hoạch, được xem là Tết của người Rơ Măm, khi cả làng cùng ăn, uống rượu cần, múa xoang, ca hát, nhảy múa mừng vụ mùa bội thu.

Đặc biệt, Lễ mở cửa kho lúa là một lễ hội lớn, kéo dài tới ba ngày với nhiều nghi thức phức tạp, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên, thần linh và con người, cùng khát vọng về cuộc sống no đủ. Lễ vật hiến tế đa dạng, bao gồm Dê trắng, dê đen, gà trắng, gà đen, trâu trắng và trâu đen. Điểm nhấn là nghi thức hiến sinh trâu tại Nhà Rông và Lễ rửa Giàng vào ngày cuối, khi già làng dùng rượu ghè pha với các loại lá rừng thơm để cẩn thận rửa vật tổ, cầu cho vụ sau bội thu và dân làng không bị dịch bệnh, thể hiện lòng tri ân sâu sắc đối với thần linh.

Người Rơ Măm rất coi trọng việc thờ cúng người đã khuất. Nét đặc sắc nhất là nghĩa địa (hay còn gọi là “làng ma”) luôn nằm về phía Tây của làng, theo quan niệm tránh để linh hồn người chết “nhìn” về phía làng khi mặt trời mọc và đi qua.

Đỉnh cao của sự tôn kính người đã khuất là Lễ bỏ mả (Pơ Thi). Già A Ren ở làng Le – người được mệnh danh là "người bắc chiếc cầu tâm linh" – chia sẻ, đây là dịp bà con tạc tượng nhà mồ bằng gỗ nhằm bảo vệ linh hồn cho những người đã khuất. Quần thể tượng nhà mồ đa dạng, độc đáo này chính là một di sản văn hóa điêu khắc dân gian hiếm có của dân tộc Rơ Măm tại làng Le. Bên cạnh đó, cộng đồng Rơ Măm còn tích lũy được những kinh nghiệm sử dụng thảo mộc tự nhiên để chăm sóc sức khỏe, nhưng mỗi khi dùng thuốc đều phải thực hành nghi lễ theo luật tục vì tin rằng có thần ngự trị trong đó.

Rơ Măm: Bản sắc giữa biên thùy và hành trình phục hồi văn hóa cổ xưa - Ảnh 3.

Nỗ lực bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc

Trong bối cảnh hội nhập, việc bảo tồn văn hóa Rơ Măm đang được đặc biệt quan tâm, điển hình là những nỗ lực từ cấp Nhà nước và sự chủ động của cộng đồng làng Le.

Sự đầu tư của Nhà nước thông qua các chương trình đặc thù đã giúp cải thiện rõ rệt đời sống của người dân làng Le. Ông A Thái, Trưởng làng Le, cho biết Nhà nước đã hỗ trợ hàng trăm con bò sinh sản, cây giống, phân bón và tổ chức tập huấn kỹ thuật. Nhờ đó, người Rơ Măm đã dần xóa bỏ thói quen sản xuất thô sơ, biết trồng lúa nước, cây công nghiệp có thu nhập cao như cao su, bời lời.

Ông Nguyễn Quang Thạch, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Quảng Ngãi, đánh giá: "Việc hỗ trợ đã giúp các hộ dân tộc Rơ Măm có thêm nguồn thu nhập từ chăn nuôi, vươn lên thoát nghèo bền vững, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần."

Rơ Măm: Bản sắc giữa biên thùy và hành trình phục hồi văn hóa cổ xưa - Ảnh 4.

Để gìn giữ bản sắc văn hóa và gắn kết với phát triển du lịch, tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai có hiệu quả Dự án 6 (Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống).

Điển hình là việc hỗ trợ phục dựng Lễ “mở cửa kho lúa” (còn gọi là Tết cơm mới). Lễ hội này được phục hồi nguyên bản, bao gồm các nghi thức hiến tế trang trọng và Lễ rửa Giàng thiêng liêng.

Bên cạnh các lễ hội lớn, công tác truyền dạy di sản phi vật thể cũng được chú trọng. Các lớp dạy cồng chiêng, múa xoang, đan lát, dệt thổ cẩm được tổ chức thường xuyên. Trong đó, các nghệ nhân như Già A Blong ở làng Le đã chủ động truyền dạy lại những nét văn hóa này cho thế hệ trẻ.

Đánh giá về tổng thể các nỗ lực, ông Phan Văn Hoàng, Phó Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh Quảng Ngãi, khẳng định: "Thông qua Dự án 6, nhiều lớp dạy cồng chiêng, đan lát, dệt và các nghi lễ, văn hóa của người dân tộc thiểu số đã được thực hiện. Đây là cơ sở để cộng đồng các dân tộc thiểu số tiếp tục phát huy bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần."

Chính sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế bền vững và bảo tồn văn hóa đã và đang tạo ra một sức sống mới, tươi đẹp và kiên cường cho cộng đồng Rơ Măm nơi biên cương Tổ quốc./.

Thu Mai

Bộ văn hóa, thể thao và du lịch
×