Phát huy giá trị của làng nghề cho công nghiệp văn hóa
20/10/2025 | 16:42Với hơn 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó có hơn 1.800 làng nghề truyền thống đã được công nhận, Việt Nam hiện đang sở hữu một kho tàng thủ công mỹ nghệ vô cùng phong phú, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Không chỉ là nơi tạo việc làm cho hàng triệu lao động nông thôn, các làng nghề còn đóng vai trò như một nguồn lực mở ra cơ hội phát triển bền vững cho công nghiệp văn hóa – một lĩnh vực đang được xem là động lực mới của nền kinh tế sáng tạo.
Từ bao đời nay, làng nghề truyền thống luôn là nơi gìn giữ ký ức văn hóa, tinh hoa lao động và những bí quyết thủ công độc đáo của người Việt. Mỗi sản phẩm ra đời từ bàn tay người thợ không đơn thuần chỉ là vật dụng phục vụ nhu cầu sinh hoạt, mà còn chứa đựng một câu chuyện – câu chuyện về lịch sử, về phong tục, về bản sắc vùng miền được truyền qua nhiều thế hệ.
Gốm Bát Tràng (Hà Nội) với đường nét tinh xảo và họa tiết giàu tính thẩm mỹ, lụa Vạn Phúc mềm mại, tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh) mộc mạc mà sâu sắc, nón lá Huế duyên dáng, hoa giấy Thanh Tiên hay tranh làng Sình (Thừa Thiên Huế), đan cói Kim Sơn (Ninh Bình)… tất cả đều là minh chứng sinh động cho sự giao hòa giữa nghệ thuật và đời sống, giữa cái đẹp truyền thống và nhu cầu thực tế của cộng đồng.

Ảnh minh họa
Ngày nay, những giá trị của làng nghề truyền thống ngày càng được nhìn nhận dưới lăng kính công nghiệp văn hóa – một lĩnh vực có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao nhờ khai thác chiều sâu văn hóa. Thực tế cho thấy, nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã và đang có chỗ đứng ổn định trên thị trường quốc tế. Các sản phẩm gốm, mây tre đan, sơn mài, thêu ren… thường xuyên xuất hiện tại những hội chợ thủ công mỹ nghệ lớn ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản. Không ít doanh nghiệp đã ký kết được những đơn hàng xuất khẩu ổn định, mở ra cơ hội phát triển cho cả cộng đồng làng nghề. Điều này chứng minh rằng khi những giá trị văn hóa được "chuyển hóa" thành sản phẩm có chất lượng và định vị tốt, chúng hoàn toàn có thể trở thành lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh giá trị kinh tế, làng nghề còn có một "sức mạnh mềm" vô cùng đặc biệt, đó là khả năng quảng bá hình ảnh quốc gia. Đối với du khách quốc tế, trải nghiệm tại làng nghề không chỉ là một điểm tham quan, mà là cơ hội để họ được "chạm tay" vào văn hóa Việt Nam. Một buổi đi dạo trong làng gốm Bát Tràng, tận mắt chứng kiến người thợ vuốt từng thớ đất, nắn từng đường men; hay một buổi ghé làng lụa Vạn Phúc, cảm nhận sự mềm mại của tấm lụa qua bàn tay người thợ dệt… chính là những trải nghiệm mang tính bản sắc mà không một sản phẩm công nghiệp nào có thể thay thế.
Theo NSND Vương Duy Biên – nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Công nghiệp Văn hóa Việt Nam cho rằng, việc thúc đẩy làng nghề truyền thống gắn với phát triển công nghiệp văn hóa chính là cách gìn giữ và lan tỏa bản sắc dân tộc. Trong cấu trúc của công nghiệp văn hóa có một lĩnh vực quan trọng là nghề thủ công mỹ nghệ, mà cội nguồn lại xuất phát từ các làng nghề. Nếu duy trì và phát triển được các làng nghề, chúng ta không chỉ bảo tồn sản phẩm thủ công truyền thống mà còn giữ gìn bản sắc văn hóa của đất nước.
Tuy nhiên, dù tiềm năng rất lớn, con đường phát triển của làng nghề trong dòng chảy công nghiệp văn hóa vẫn còn nhiều rào cản. Trước hết là tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu tính chuyên nghiệp, khiến các sản phẩm khó cạnh tranh và khó đáp ứng những yêu cầu khắt khe về chất lượng, tiêu chuẩn môi trường và thiết kế của thị trường quốc tế. Nhiều cơ sở sản xuất đã giản lược khâu thủ công, thậm chí "công nghệ hóa" để chạy theo số lượng, khiến sản phẩm dần mất đi tính độc bản và giá trị "handmade" vốn có.
Bên cạnh đó, không ít làng nghề vẫn loay hoay trong việc xây dựng thương hiệu, thiếu chiến lược quảng bá dài hơi. Sản phẩm dù độc đáo, tinh xảo nhưng chưa được định vị rõ ràng, dễ bị "hòa lẫn" trên thị trường. Đồng thời, nguồn nhân lực kế cận cũng là một vấn đề đáng lo ngại. Trong khi nhiều nghệ nhân cao tuổi ngày càng thưa vắng, lực lượng lao động trẻ lại ít mặn mà với nghề truyền thống vì thu nhập bấp bênh, điều kiện lao động nặng nhọc. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực sản xuất mà còn đe dọa sự thất truyền của những "bí quyết cổ truyền" đã được gìn giữ qua nhiều thế hệ.
Chính vì vậy, để làng nghề có thể phát triển mạnh mẽ, hòa vào dòng chảy công nghiệp văn hóa hiện đại, nhiều chuyên gia cho rằng, cần có những giải pháp đồng bộ và bền vững. Trong đó, trọng tâm là vừa bảo tồn giá trị truyền thống, vừa thích ứng với nhu cầu mới của thị trường.

Ảnh minh họa
NSND Vương Duy Biên cho rằng, phát triển làng nghề trong bối cảnh mới cần hài hòa giữa ứng dụng công nghệ và gìn giữ tinh thần thủ công. Công nghệ, máy móc có thể trở thành công cụ hỗ trợ để giảm bớt sức lao động nặng nhọc, nhưng không thể thay thế bản chất thủ công mỹ nghệ vốn là "linh hồn" của làng nghề. Làng nghề không chỉ là nơi sản xuất hàng hóa mà còn là nơi "truyền nghề". Là nơi những giá trị nghề nghiệp, tinh thần sáng tạo và bí quyết được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi vậy, điều quan trọng là phải bảo đảm sự tiếp nối này một cách nguyên vẹn, giữ đúng tinh thần thủ công truyền thống".
Ông cũng nhấn mạnh, để làm được điều đó, chính quyền địa phương cần nhận thức rõ tầm quan trọng của bảo tồn làng nghề và có chính sách hỗ trợ thực chất, thiết thực. Song song, cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để khơi dậy tình yêu nghề trong thế hệ trẻ – lực lượng kế cận của làng nghề trong tương lai.
Tong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, làng nghề không chỉ là "cái nôi" của những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn có thể trở thành một trụ cột của công nghiệp văn hóa Việt Nam. Khi được đầu tư đúng hướng, phát triển bền vững và có chiến lược rõ ràng, các làng nghề sẽ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn góp phần khẳng định vị thế văn hóa Việt trên bản đồ thế giới. Đây chính là con đường vừa giữ gìn hồn cốt dân tộc, vừa mở ra một tương lai mới đầy triển vọng cho ngành thủ công mỹ nghệ nước nhà../.