Nhận thức về di sản văn hóa ngày càng được nâng cao
22/08/2022 | 08:00Theo Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, sự quan tâm của các cấp chính quyền đối với việc bảo tồn di sản văn hóa ngày càng được nâng cao.
Cục trưởng Lê Thị Thu Hiền: Nhận thức rõ quan điểm về phát huy vai trò của văn hóa trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, coi văn hóa là một trong bốn trụ cột của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng trong nhiệm vụ kế hoạch 05 năm của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về một trong các đột phá chiến lược hoàn thiện thể chế, ngành Di sản văn hóa đã có nhiều chuyển biến, đổi mới tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa”, xác định quản lý nhà nước thông qua các công cụ pháp luật, cơ chế, chính sách là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt để “khơi thông nguồn lực” và “thúc đẩy sáng tạo”; nhằm tháo gỡ các rào cản chính sách, khai thác các nguồn tài nguyên văn hóa và khuyến khích sự tham gia tích cực của xã hội, tạo động lực phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa.
Theo lộ trình, trong năm 2022, nhiều di sản được trình UNESCO ghi danh. Vì vậy, Cục Di sản văn hóa cũng phối hợp các địa phương để bảo vệ các hồ sơ khoa học trình UNESCO ghi danh trong năm 2022 như Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà; Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm. 02 hồ sơ di sản tư liệu xét di sản tư liệu khu vực Châu Á Thái Bình dương thuộc Chương trình Ký ức thế giới: Văn bản Hán nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943) và Bia Ma nhai tại Danh thắng Ngũ hành sơn (Đà Nẵng).
Điều đáng mừng là nhận thức về di sản văn hóa đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể ở các địa phương được nâng cao, thể hiện qua sự quan tâm của lãnh đạo các địa phương đối với công tác xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh tại các Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và xây dựng các đề án/dự án, kế hoạch bảo vệ, phát huy giá trị di sản sau khi được ghi danh tại các Danh sách của UNESCO và Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhiều di tích tiếp tục được quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo gắn với khai thác, phát triển du lịch...
Căn cứ chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các địa phương đã tiến hành kiểm tra, rà soát chủ động có phương án phòng chống cháy nổ, trộm cắp nhằm đảm bảo an toàn cho di tích và tài liệu, hiện vật đang được lưu giữ, trưng bày tại bảo tàng, di tích; bố trí người trông coi, bảo vệ di tích; hướng dẫn khách tham quan thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn vệ sinh môi trường tại di tích.
Cục trưởng Lê Thị Thu Hiền: Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có khoảng 40.000 di tích được kiểm kê. Trong đó, hiện có khoảng 10.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, thành phố; trên 3.460 di tích cấp quốc gia; 107 di tích quốc gia đặc biệt. Từ năm 2012 đến nay, qua nhiều đợt xét chọn, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận 164 bảo vật quốc gia, bao gồm hiện vật và nhóm hiện vật.
Việt Nam có 8 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, gồm: Quần thể di tích Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Mỹ Sơn, Đô thị cổ Hội An, Phong Nha - Kẻ Bàng, Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ và Quần thể danh thắng Tràng An; và 14 di sản được UNESCO công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại, gồm: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Hát ca trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Hát Xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò chơi kéo co, Thực hành Tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ của người Việt, Bài Chòi Trung Bộ, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam và nghệ thuật Xòe Thái.
Cùng với đó, theo Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, Việt Nam đã có 7 Di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, là: Mộc bản Triều Nguyễn, 82 bia đá các khoa thi Tiến sĩ thời Lê - Mạc, Châu bản Triều Nguyễn, Mộc bản kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm, Hệ thống văn thơ trên kiến trúc cung đình Huế, Mộc bản trường học Phúc Giang, Hoàng hoa sứ trình đồ. Ngoài ra, Việt Nam còn có 9 Khu dự trữ sinh quyển thế giới (rừng ngập mặn Cần Giờ, Đồng Nai, Châu thổ sông Hồng, Cát Bà, Kiên Giang, Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm, Mũi Cà Mau, Lang Biang - Đà Lạt) và 3 Công viên địa chất toàn cầu (Cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang, Non nước Cao Bằng, Đắk Nông).
Những năm qua, các di sản văn hóa được nhận diện giá trị, bảo tồn và phát huy, đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục lịch sử, vun đắp truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Di sản văn hóa ở Việt Nam đã và đang thể hiện ngày càng rõ hơn vai trò quan trọng trong việc giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, hình thành nên nguồn nhân lực đóng góp trực tiếp, quyết định vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Nhiều di sản văn hóa đã trở thành những sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực vừa là mục tiêu cho sự phát triển ngành kinh tế mũi nhọn du lịch, đồng thời, từng bước làm thay đổi cơ cấu kinh tế của địa phương nơi có di sản, mang tới cho cộng đồng và địa phương những lợi ích thiết thực và bền vững.
Theo thống kê, khách du lịch trong nước và quốc tế tới tham quan các khu di sản ở Việt Nam tăng mạnh, đem lại doanh thu hàng trăm tỉ đồng cho địa phương trong những năm gần đây, đặc biệt là các khu di sản, như: Vịnh Hạ Long, Quần thể di tích Cố đô Huế, Quần thể danh thắng Tràng An, Phố cổ Hội An, chùa Hương, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khu di tích và danh thắng Yên Tử, Khu di tích và danh thắng Núi Sam… Nguồn thu này đã góp phần rất quan trọng trong việc tái đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản, nâng cao đời sống nhân dân, của những người làm công tác bảo tồn… Di sản văn hóa đã trở thành hạt nhân và động lực cho sự phát triển.
Tuy nhiên, cần khẳng định, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và cộng đồng. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò tạo ra khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách; còn nhân dân đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ, gìn giữ, lưu truyền và phát huy giá trị di sản.
Cục trưởng Lê Thị Thu Hiền: Theo đánh giá của UNESCO, kể từ khi Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có hiệu lực, Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực của Công ước này. Chúng ta đã hợp tác với UNESCO triển khai nhiều dự án để hỗ trợ các địa phương trong bảo vệ, thúc đẩy các thực hành văn hóa đa dạng và phong phú.
Cục Di sản văn hóa sẽ tham mưu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng kế hoạch cụ thể với tư cách thành viên Ủy ban liên Chính phủ của Công ước, theo đó tập trung chia sẻ các thực hành tốt, thúc đẩy các mục tiêu của Công ước, thúc đẩy các ưu tiên của UNESCO, nâng cao nhận thức, tăng cường đóng góp hoàn thiện cơ chế của Công ước. Việt Nam cũng sẽ tăng cường các di sản văn hóa phi vật thể đa quốc gia vì sự tôn trọng lẫn nhau, đối thoại đa văn hóa và sự phát triển bền vững, thúc đẩy sự cộng hưởng lớn hơn giữa các Công ước về văn hóa và thúc đẩy các hoạt động và sự kiện kỷ niệm 20 năm ra đời Công ước.
Để công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản tiếp tục đạt được hiệu quả, chúng tôi xác định, trong thời gian tới cần làm tốt 4 giải pháp sau:
Một là tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cộng đồng là chủ thể của di sản hoặc sống dựa vào di sản. Tăng cường phổ biến pháp luật, trang bị cho họ những hiểu biết, kiến thức về giá trị của di sản, các nguyên tắc ứng xử với di sản để góp phần khắc phục tình trạng thương mại hóa, hoành tráng hóa, giải thiêng hóa di sản. Đặc biệt để hướng tới phát triển bền vững, cần giáo dục ý thức và hành động ứng xử với môi trường, không xả rác bừa bãi, phá vỡ cảnh quan, xâm hại môi trường sinh thái.
Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản.
Ba là, phát huy vai trò của cộng đồng.
Bốn là, tận dụng vai trò của các nhà khoa học, chuyên gia, phản biện xã hội trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Cục trưởng Lê Thị Thu Hiền: Đây là vấn đề được nhân dân, cử tri cả nước quan tâm và các đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi trong phiên trả lời chất vấn của Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng tại Phiên họp thứ 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 10/8 vừa qua. Theo đó, Bộ trưởng nhìn nhận, vẫn còn hiện tượng xâm hại di tích, vi phạm trong hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích như thực hiện dự án tu bổ khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép, thực hiện không đúng với nội dung được Bộ VHTTDL và cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định… đặc biệt là những dự án tu bổ di tích từ nguồn vốn xã hội hóa.
Các di tích cấp tỉnh và di tích trong danh mục kiểm kê chưa được xếp hạng, nhìn chung chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả bảo vệ và phát huy giá trị di tích còn thấp, đôi khi xảy ra vi phạm nhưng chưa được kịp thời xử lý dứt điểm.
Do tính chất đặc thù của loại hình di tích lịch sử cách mạng, lại chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên dẫn đến một số di tích đang bị hư hại, xuống cấp.
Nguyên nhân là do nhận thức và ý thức chấp hành quy định của pháp luật về di sản văn hóa còn chưa đồng đều giữa các cấp, các ngành, các địa phương; Việc tuyên truyền, quảng bá và xây dựng các sản phẩm du lịch gắn trực tiếp với từng di tích, thể hiện và phát huy được nét đặc thù của địa phương ở một số di tích chưa đạt hiệu quả cao; Nguồn lực đầu tư cho tu bổ, giữ gìn di sản văn hóa còn hạn chế…
Cùng với đó là chất lượng và trình độ nguồn nhân lực trực tiếp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa chưa đồng đều, chưa am hiểu về di sản văn hóa, có phần chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn.
Bộ VHTTDL cũng phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước, tuân thủ và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật để bảo vệ nghiêm ngặt các yếu tố gốc cấu thành di tích, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
Xin trân trọng cảm ơn bà!