Đắk Lắk: Nỗ lực chuẩn hóa quản lý để biến kho tàng văn hóa thành nguồn lực phát triển
25/11/2025 | 10:02Sau khi hợp nhất địa giới hành chính, tỉnh Đắk Lắk hiện diện như một "siêu không gian" văn hóa, nơi giao thoa của đại ngàn Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ. Với 176 di tích được xếp hạng cùng hai Di sản UNESCO, tỉnh đang tập trung rà soát, chuẩn hóa cơ chế quản lý, đầu tư tu bổ, nhằm khai thác hiệu quả giá trị di sản, biến nguồn vốn văn hóa vô giá này thành động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển bền vững.
Hệ thống di sản đồ sộ sau sáp nhập và yêu cầu quản lý mới
Dải đất miền Trung – Tây Nguyên nơi Đắk Lắk (mới) tọa lạc là nơi hội tụ của 49 dân tộc anh em, hình thành một vùng di sản đặc biệt với những vỉa tầng văn hóa phong phú. Việc hợp nhất hai địa phương là tỉnh Đắk Lắk (cũ) và tỉnh Phú Yên (trước đây) đã mở rộng địa giới hành chính, kéo theo yêu cầu cấp thiết phải rà soát, chuẩn hóa và hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất, hiệu lực và hiệu quả.
Hệ thống di tích của tỉnh hiện nay vô cùng đồ sộ, là cơ sở để triển khai các chiến lược bảo tồn. Toàn tỉnh có tổng cộng 176 di tích được xếp hạng, bao gồm 05 Di tích Quốc gia Đặc biệt, 39 Di tích Quốc gia và 132 Di tích cấp tỉnh. Sự phân bố cũng rất đa dạng. Khu vực phía Tây (Đắk Lắk cũ) có 46 di tích, chủ yếu là lịch sử và danh lam thắng cảnh, nổi bật với Di tích Nhà đày Buôn Ma Thuột và Tháp Yang Prong. Khu vực phía Đông (Phú Yên trước đây) có 130 di tích, thuộc đủ các loại hình lịch sử – văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ và danh lam thắng cảnh, tiêu biểu như Danh lam thắng cảnh Gành Đá Đĩa và Tháp Nhạn. Ngoài ra, toàn tỉnh còn kiểm kê được 286 di tích trong Danh mục kiểm kê, là nguồn tài nguyên tiềm năng cho việc lập hồ sơ xếp hạng và quy hoạch.

Chuẩn hóa quản lý: Động thái quyết liệt sau hợp nhất
Nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong công tác quản lý một không gian văn hóa rộng lớn, Đắk Lắk đang triển khai hàng loạt động thái chuẩn hóa từ văn bản pháp lý đến thực tiễn.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã hoàn thành lấy ý kiến góp ý hồ sơ dự thảo Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh. Việc ban hành Quy chế này sẽ là khung pháp lý thống nhất, thay thế cho các văn bản phân cấp trước đây. Cụ thể, công tác phân cấp quản lý di tích vẫn đang được triển khai theo các quy định đã ban hành trước khi sáp nhập Khu vực phía Tây áp dụng theo Quyết định số 20/2022/QĐ-UBND ngày 30/5/2022, trong khi khu vực phía Đông thực hiện theo Quyết định số 21/2014/QĐ-UBND ngày 22/7/2014 và Quyết định số 911/QĐ-UBND ngày 28/5/2013 về phân cấp quản lý di tích.
Công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học và cắm mốc khoanh vùng bảo vệ di tích diễn ra thường xuyên. Tỉnh Phú Yên (trước đây) đã ban hành Danh mục kiểm kê 226 di tích theo Quyết định số 1521/QĐ-UBND ngày 6/11/2023. Về cắm mốc, công tác này tại khu vực phía Tây được triển khai sau khi ban hành Quyết định số 20/2022/QĐ-UBND và đến tháng 11/2025 đã cắm mốc 10/46 di tích. Khu vực phía Đông đạt 100/130 di tích được cắm mốc.
Tỉnh đã tổ chức lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi cho 03/05 di tích quốc gia đặc biệt. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Nhiệm vụ lập Quy hoạch cho Di tích Nhà đày Buôn Ma Thuột tại Quyết định số 806/QĐ-TTg ngày 6/7/2023 và Danh lam thắng cảnh Gành Đá Đĩa tại Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 4/12/2023. Việc lập quy hoạch các cụm di tích quốc gia còn lại sẽ được triển khai theo Luật Di sản văn hóa 2024 và Nghị định số 208/2025/NĐ-CP ngày 17/7/2025 của Chính phủ.

Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể và giá trị khoa học
Di sản phi vật thể là điểm nhấn văn hóa đặc sắc và là nguồn sức sống cộng đồng của Đắk Lắk. Tỉnh tự hào sở hữu hai di sản đại diện của nhân loại được UNESCO ghi danh là Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên và Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam. Ngoài ra, tỉnh còn có 11 di sản nằm trong Danh mục quốc gia, bao gồm các giá trị đặc trưng như Khan Êđê, Lễ mừng thọ của người M’nông, và Nghề nước mắm Phú Yên.
Để bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản này, đặc biệt là di sản Cồng chiêng, tỉnh đã triển khai nhiều chương trình hành động cụ thể tại cộng đồng. Đáng chú ý, tỉnh đã cấp 214 bộ chiêng và hơn 1.000 bộ trang phục truyền thống cho các buôn, đồng thời tổ chức 150 lớp truyền dạy và phục dựng trên 140 nghi lễ, lễ hội truyền thống gắn với cồng chiêng. Các nỗ lực này nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả bảo tồn gắn với khai thác du lịch.
Về nguồn nhân lực bảo tồn, toàn tỉnh hiện có 55 Nghệ nhân Ưu tú. Nhằm động viên và giữ chân đội ngũ này, tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 06/2023/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ hàng tháng cho nghệ nhân. Đồng thời, tỉnh đang tích cực hoàn tất 46 hồ sơ đề nghị công nhận danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân và Nghệ nhân Ưu tú đợt 4 năm 2025.
Bên cạnh giá trị phi vật thể, di sản khảo cổ cũng khẳng định giá trị lịch sử lâu đời của vùng đất này. Về khảo cổ, hai di sản quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia: Sưu tập mũi khoan đá Thác Hai (tháng 1/2024) và Phù điêu Kala Núi Bà (12/2024). Các phát hiện này là cơ sở quan trọng để tiếp tục điều tra, khảo sát và khai quật các điểm khảo cổ mới, góp phần làm phong phú thêm hệ thống di sản vật thể của tỉnh.
Phát huy giá trị di sản gắn với du lịch
Mục tiêu cuối cùng của công tác bảo tồn là phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch, tạo nguồn thu tái đầu tư.
Công tác tu bổ, tôn tạo di tích được thực hiện trong giai đoạn 2020 – 2025 với tổng vốn đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước và Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa. Hiện nay, các thủ tục triển khai Quy hoạch bảo quản, tu bổ Di tích quốc gia đặc biệt Nhà đày Buôn Ma Thuột đang được hoàn tất, căn cứ trên Tờ trình số 074/TTr-SVHHTDL ngày 09/9/2025.
Tính đến tháng 10/2025, tổng lượng khách tham quan các di tích của tỉnh đạt 462.190 lượt. Khu vực phía Đông là tâm điểm thu hút khách với 412.554 lượt, tập trung chủ yếu tại các danh lam thắng cảnh nổi bật như Gành Đá Đĩa. Khu vực phía Tây đón 49.636 lượt khách. Việc triển khai thu phí tham quan tại một số điểm đã góp phần tạo nguồn thu phục vụ công tác quản lý.
Tuy nhiên, thách thức về nguồn lực vẫn còn lớn. Khu vực phía Tây có 23/46 di tích xuống cấp, trong đó 15 di tích xuống cấp nghiêm trọng, bao gồm 8/19 di tích quốc gia như Nhà đày Buôn Ma Thuột, Tháp Yang Prong. Khu vực phía Đông có 31/130 di tích xuống cấp, trong đó nhiều di tích xuống cấp nghiêm trọng như Mộ và Đền thờ Lương Văn Chánh.
Ngoài ra, tỉnh đang đối mặt với những thách thức về nguồn nhân lực chuyên môn sâu còn thiếu hụt, sự chồng chéo giữa các quy định pháp luật liên quan đến đất đai và lâm nghiệp, cùng với áp lực đô thị hóa và sự tác động của biến đổi khí hậu. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ hạn chế khó khăn về ngân sách và nhận thức về công tác bảo tồn chưa đồng đều ở một số địa phương.
Di sản – Nguồn lực nội sinh cho tương lai
Di sản văn hóa được xác định là tài sản vô giá, là yếu tố nội sinh và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Bằng những nỗ lực chuẩn hóa quản lý, đồng bộ hóa đầu tư và phát huy giá trị gắn với du lịch, Đắk Lắk đang từng bước biến kho tàng văn hóa đồ sộ của mình thành nguồn lực thiết yếu, tạo dựng nền tảng tinh thần vững chắc cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng trong tương lai./.












