Tin tức và Sự kiện

Cỡ chữ
A A
Từ viết tắt Đọc bài viết
× Đọc bài viết Tạm dừng Đọc tiếp Dừng đọc Đang tải...
Vui lòng chờ giây lát
× Bài viết không có file audio
Tương phản

Tìm hiểu tục cấp sắc của Dân tộc Dao

16/12/2019 | 14:11

Đối với dân tộc Dao, tục cấp sắc là nghi lễ quan trọng nhất trong đời người và sau lễ này, người được đặt tên sẽ có thần quyền cũng như tiếng nói trong xã hội, dân bản của đồng bào Dao.

Trong xã hội - gia đình đồng bào dân tộc Dao, lễ cấp sắc - Lễ đặt tên thánh sư (tên âm) cho con trai đến tuổi trưởng thành. Lễ cấp sắc (còn gọi là lễ lập tịnh, lễ chẩu đàng). Tiếng Dao gọi là "Quá tăng, Tẩu sai hay là Phùn voòng" dịch sang tiếng Việt là cấp đèn. Lễ cấp sắc của người Dao Tiền thường được tổ chức vào tháng 11, 12 hoặc tháng 1, 2 (âm lịch) hàng năm, thời điểm lúc nông nhàn, tại gia đình người được cấp sắc, mời dân làng đến giúp hành lễ và mở hội cho cộng đồng ngay tại nhà mình.

TỤC CẤP SẮC CỦA DÂN TỘC DAO - Ảnh 1.

Gia đình người Dao Tiền ở Bản KM số 5 (Mộc Châu - Sơn La), đang làm lễ đặt tên cho con trai đầu lòng

Cấp sắc không chỉ là một tục lệ rất phổ biến mà còn là bắt buộc đối với tất cả mọi đàn ông dân tộc Dao. Người nào được cấp sắc sau này chết, hồn mới được về đoàn tụ với tổ tiên. Cấp sắc cũng còn có nghĩa là lễ "khai sinh" hay lễ nhận lấy tên của thánh thần ban định cho, cho nên những bản cấp sắc còn có ý nghĩa như là một "giấy thông hành" để sau khi chết có thể về ngay thế giới bên kia mà không phải qua kiếp bị đoạ đầy ở âm phủ. Người nào được cấp sắc mới được xã hội coi là người lớn, người chưa được cấp sắc dù tuổi có già cả như thế nào đi nữa vẫn bị coi là trẻ con, và khi chết thì hồn cũng không được siêu thoát. Đồng bào Dao có lòng tin sâu sắc rằng được cấp sắc thì làm ăn mới được may mắn, sinh hoạt mọi mặt mới được thuận lợi, dòng họ dân tộc mới phát triển. Vì thế, dù tốn kém như thế nào đồng bào Dao cũng tổ chức bằng được nghi lễ này.          

Người ta làm lễ cấp sắc lần lượt theo thế hệ và thứ bậc: Ông, bố, anh, em… Độ tuổi được cấp sắc của người Dao là từ 12 đến 16 tuổi trở lên và chỉ cấp sắc cho con trai chưa có vợ. Riêng với người Dao Quần Chẹt chỉ được cấp sắc sau khi có vợ

Thực hiện một lễ cấp sắc đòi hỏi gia đình người thụ lễ phải chuẩn bị rất công phu và tốn kém như: Gạo, thịt, rượu, quần áo, tranh thờ, nhạc cụ truyền thống… thời gian chuẩn bị dài hay ngắn phụ thuộc vào kinh tế mỗi gia đình, có nghi lễ chuẩn bị 5 năm, 10 năm, có khi cả đời người.

Lễ cấp sắc có nhiều thang bậc khác nhau. Tùy theo từng cấp độ cấp sắc mà số lượng thầy được thỉnh mời có khác nhau, đơn giản nhất là lễ "Quá tăng" thực hiện trong 1 ngày 2 đêm và cấp 3 đèn, 36 âm binh và chỉ cần 3 thầy làm lễ (1 thầy chính và 2 thầy phụ), các thầy này phải là những người đã được cấp sắc tương đương với người thụ lễ trở lên và phải lớn tuổi hơn người thụ lễ dù chỉ 1 ngày. Ngoài các thầy, trong lễ cấp sắc còn phải mời 3 nam, 3 nữ thiếu niên mặc quần áo dân tộc để hát trong một số nghi lễ. Trước khi đến nhà người thụ lễ, thầy phải vệ sinh thân thể sạch sẽ, cúng tổ tiên để thông báo xin giúp đỡ, đồng thời chuẩn bị đồ nghề. Trước khi ra cửa phải thắp 3 nén hương, yểm bùa, đọc thần chú để đem quân âm binh đi theo trợ giúp. Dọc đường đến nhà người thụ lễ, mỗi lần qua sông thầy phải dùng gậy tầm xích vớt nước lên đưa vào mồm khấn để trừ ma quỷ. Đến đầu làng người thụ lễ, thầy phải cúng khấn thần làng (thổ địa) với nội dung mong các thần cai quản làng bản cho phép vào làng làm việc, sau đó đốt tiền vàng gửi cho thổ thần. Đến gần nhà người thụ lễ, thầy rút mảnh giấy nhỏ cắt hình đuôi én, trên có vẽ hình quái đản, câu phù chú bằng chữ Nôm Dao, niệm vào đó để thu tà đạo, vong hồn có ý phá rối đám cấp sắc nhốt vào ngục tối.

TỤC CẤP SẮC CỦA DÂN TỘC DAO - Ảnh 2.

Sau lễ này, các cậu bé chính thức trở thành người đàn ông có thực thụ

Đối với người Dao Tiền, Lễ cấp sắc bao gồm 8 nghi lễ chính: Cúng chấp panh: Tức thông báo cho tổ tiên người thụ lễ biết để tiếp ma và âm binh của các thầy, yêu cầu các ma phù hộ; Lễ treo tranh (hay còn gọi là lễ thả tranh) các tranh được treo gồm có: Tranh tam thanh, tranh Ngọc Hoàng, tranh tứ phủ công đồng... Thả tranh xong, thầy và người thụ lễ làm lễ "Sính miền" tức mời ma, thánh thần chứng giám buổi lễ; Lễ khai đàn: Là để khai sáng lễ cấp sắc, răn đe những kẻ có ác ý phản thầy, phản chủ; Lễ đặt tên âm (hay còn gọi là lễ đổi tên). Đây là nghi lễ rất quan trọng, bắt buộc trong đời người con trai Dao. Người Dao có tập tục khi mới sinh chỉ đặt tạm cho có tên để gọi. Khi làm lễ cấp sắc, họ phải đổi tên mới - tên mật; Lễ cấp đèn, hạ đèn và cấp âm binh; Lễ cấp đạo sắc: Đạo sắc này coi là bằng chứng để người thụ lễ được phép thực hiện các nghi lễ cúng bái và có vị thế trong xã hội người Dao; Lễ cúng Bàn Vương: Được diễn ra vào ngày cuối của lễ cấp sắc, trong lễ này cả người thụ lễ và người dự lễ đều được nghe truyền thuyết, nguồn gốc dân tộc mình; Lễ hội 36 ca khúc: Trong lễ này ba cặp thanh niên nam nữ sẽ hát các ca khúc truyền thống của dân tộc Dao với nhiều thể loại khác nhau như ca ngợi cảnh đẹp quê hương, sự hẹn hò trai gái... cứ mỗi tiết mục họ lại chúc rượu nhau, cuộc vui cứ thế kéo dài./.

Người Dao (các tên gọi khác: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v) là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc ở Việt Nam với số dân là 751.067 người (2009). Ở Việt Nam, người Dao tuy có dân số không đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,...) đến một số tỉnh trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y).

Vụ Văn hóa dân tộc

Bộ văn hóa, thể thao và du lịch
×