Định hướng xây dựng hệ thống thông tin, sơ sở dữ liệu ngành VHTTDL
12/11/2024 | 08:31Đây là một ngành mang tính đa dạng, bao quát, có sức lan tỏa rộng và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường. Vì vậy, trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và chiến lược chuyển đổi số của Chính phủ, việc xây dựng định hướng phát triển hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành cho ngành VHTTDL là hết sức cần thiết để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và ra quyết định của lãnh đạo.
Ngành VHTTDL thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực như di sản, văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch, bản quyền tác giả, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, văn hóa cơ sở và các hoạt động giải trí …. Đây là một ngành mang tính đa dạng, bao quát, có sức lan tỏa rộng và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường. Vì vậy, trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và chiến lược chuyển đổi số của Chính phủ, việc xây dựng định hướng phát triển hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành cho ngành VHTTDL là hết sức cần thiết để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và ra quyết định của lãnh đạo.
Hiện trạng xây dựng HTTT, CSDL ngành VHTTDL
Theo số liệu khảo sát năm 2023, trong 25 đơn vị khảo sát trực tiếp phần lớn các đơn vị vẫn chưa xây dựng cơ sở dữ liệu mà chủ yếu dữ liệu lưu trữ dạng thô, vật lí như giấy, văn bản, tệp, ổ cứng, chưa được số hóa. Trong 60 đơn vị khảo sát gián tiếp, có 58 đơn vị đã ứng dụng phần mềm dùng chung của Bộ vào trong công việc quản lý, điều hành như quản lý thông tin CCVC, quản lý điều hành tác nghiệp gồm hệ thống voffice và hệ thống email ... Nhiều đơn vị lưu trữ dữ liệu dạng thô như tài liệu, văn bản, sách, báo, đĩa DVD, đĩa CD, đĩa cứng, USB và một số dữ liệu ở dạng số hóa. Tổng quan có 28 đơn vị đã xây dựng phần mềm, ứng dụng CSDL để phục vụ cho hoạt động của đơn vị. Có 15 đơn vị đã xây dựng trang thông tin, chia sẻ CSDL phục vụ hoạt động của đơn vị như trang thông tin điện tử các Bảo tàng, trang thông tin Cục bản quyền tác giả…Về hệ thống thông tin quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành tại các đơn vị hầu như chưa có và đang quản lý ở dạng thô. Một số lĩnh vực đã áp dụng công nghệ trong quản lý dữ liệu, điển hình như dữ liệu về du lịch, dữ liệu về bản quyền tác giả, quản lý hiện vật, bảo vật, một số đơn vị cũng đã có những phần mềm chuyên biệt, phần lớn là các phần mềm liên quan đến việc theo dõi, hỗ trợ hoạt động nghiệp vụ của đơn vị.
Từ những số liệu thống kê thực tế cho thấy công tác quản lý thông tin và dữ liệu trong ngành VHTTDL vẫn còn nhiều hạn chế như: Sự phân tán, thiếu tính đồng bộ trong việc quản lý và lưu trữ thông tin, dữ liệu; CSDL chưa được cập nhật thường xuyên, gây khó khăn trong công tác quản lý, khai thác và chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan, đơn vị liên quan; Thiếu các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để hỗ trợ quản lý, ra quyết định; Công tác thu thập, xử lý, chuẩn hóa dữ liệu và cập nhật thông tin, dữ liệu còn chưa đồng bộ, hiệu quả; Dữ liệu chưa tập trung về một nơi, chưa nhất quán. Do đó cần xây dựng CSDL tập trung để lưu trữ và sử dụng; Dữ liệu cung cấp của các đơn vị trực thuộc Bộ vẫn còn trùng lặp giữa các trường dữ liệu hoặc tên gọi.
Các yêu cầu cơ bản của hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành
Để xây dựng một hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành hiệu quả cho ngành VHTTDL, cần xác định các yêu cầu cơ bản sau: Tính toàn diện và đa dạng, Tính kết nối và tích hợp, Tính an toàn, bảo mật và khả năng truy cập, Tính linh hoạt và khả năng mở rộng, Chuẩn hóa và quản lý dữ liệu, Khả năng tương tác với các bên liên quan.
Các yêu cầu quản lý về xây dựng HTTT, CSDL Bộ ngành
Hiện nay, các yêu cầu quản lý về xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu của bộ, ngành đã được quy định rõ ràng và đầy đủ trong các văn bản pháp luật. Các quy định này bao gồm những khái niệm chính về cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, dữ liệu chủ, cơ sở dữ liệu dùng chung, phương thức kết nối, chia sẻ dữ liệu và Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử.
Dữ liệu chủ là thông tin cơ bản nhất để mô tả, định danh và phân biệt đối tượng cụ thể được cơ quan nhà nước quản lý, đóng vai trò quan trọng trong việc đồng bộ và tham chiếu giữa các cơ sở dữ liệu khác nhau (Nghị định số 47/2024). Dữ liệu chủ là yếu tố then chốt cho việc tái sử dụng và tránh đầu tư trùng lặp, lãng phí, thông qua việc đảm bảo dữ liệu không bị thu thập lại mà được khai thác hiệu quả từ các cơ sở dữ liệu hiện có. Dữ liệu chủ được quản lý bởi các CSDL Quốc gia, CSDL dùng chung và CSDL chuyên ngành của các Bộ, ngành, địa phương.
Nội dung quan trọng của việc hình thành các CSDL Quốc gia, CSDL các Bộ, ngành, địa phương là việc đảm bảo liên thông, kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các CSDL. Các phương thức chia sẻ dữ liệu thông qua các nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu, giúp cải thiện hiệu quả quản lý, điều hành và phục vụ người dân. Đây là phương thức cần được ưu tiên sử dụng, thể hiện bởi tính xuyên suốt trong các văn bản hiện hành về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước cũng như Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử 3.0.
Nền tảng cho việc xây dựng, triển khai hiệu quả các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu này là sự liên kết chặt chẽ và khai thác tối đa các tài nguyên dữ liệu, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách hành chính và tăng cường tính công khai, minh bạch trong phục vụ người dân. Các dữ liệu tổng hợp và thống kê được cung cấp để hỗ trợ chỉ đạo và điều hành, thay thế giấy tờ và tự động hóa các hoạt động nghiệp vụ, làm nền tảng cho sự phát triển của Chính phủ số, xã hội số.
Định hướng xây dựng các HTTT, CSDL chuyên ngành VHTTDL
HTTT, CSDL chuyên ngành là gì? Mỗi HTTT, CSDL chuyên ngành khi triển khai sẽ phục vụ một nhóm nghiệp vụ thuộc một lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Trong trường hợp các quy định quản lý của lĩnh vực chuyên ngành không có sự phân cấp từ trung ương đến địa phương thì chỉ cần triển khai một HTTT, CSDL duy nhất ở trung ương. Ngược lại khi có sự phân cấp quản lý đến địa phương, có 2 phương án triển khai xây dựng hệ thống như sau:
- Xây dựng một HTTT, CSDL tập trung được vận hành tại trung ương và triển khai sử dụng tới tất cả các địa phương. Các địa phương sẽ phải chịu trách nhiệm đối với nguồn dữ liệu được cung cấp trên hệ thống theo địa bàn đã phân cấp quản lý.
- Xây dựng HTTT, CSDL phân tán tại trung ương và địa phương theo trách nhiệm được phân cấp quản lý. Trong đó HTTT, CSDL tại địa phương phải được kết nối với HTTT, CSDL tại trung ương để cập nhật, đồng bộ chia sẻ dữ liệu trên cả nước.
Qua rà soát, có 22/38 HTTT, CSDL chuyên ngành VHTTDL được quy định tại Quyết định số 4030/QĐ-BVHTTDL có nghiệp vụ quản lý được phân cấp từ trung ương đến địa phương, trong đó bao gồm các lĩnh vực: Du lịch, Di sản văn hóa, Gia đình, Thể dục thể thao, Điện ảnh, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm, Văn hóa cơ sở, Nghệ thuật biểu diễn. Phương án xây dựng được ưu tiên trong kế hoạch chuyển đổi số sẽ là triển khai hệ thống tập trung từ trung ương đến địa phương để bảo đảm sự đồng bộ, rút ngắn thời gian, và giảm chi phí đầu tư trên cả nước.
Hiện nay, Bộ VHTTDL đã hoàn thành xây dựng được một số CSDL tập trung được nguồn dữ liệu trên toàn quốc như lĩnh vực Du lịch (CSDL cơ sở lưu trú, CSDL hướng dẫn viên du lịch, …), lĩnh vực Di sản văn hóa (CSDL hiện vật, CSDL Bảo tàng…), lĩnh vực Văn hóa cơ sở (CSDL Chương trình sự kiện cộng đồng và lễ hội). Phần lớn các CSDL này được thu thập, cập nhật theo thời gian định kỳ sau khi có các kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Quy trình tạo lập dữ liệu này không bảo đảm được tính "đúng-đủ-sạch-sống" của CSDL vì chưa có sự gắn kết với quy trình xử lý nghiệp vụ giải quyết thủ tục hành chính hàng ngày. Từ đó cần phải tiếp tục nâng cấp các CSDL chuyên ngành tập trung thành các HTTT chuyên ngành được triển khai từ trung ương đến địa phương, có sự gắn kết giữa quy trình xử lý nghiệp vụ với CSDL tập trung.
ất cả các HTTT, CSDL chuyên ngành khi xây dựng phải bảo đảm tính kết nối, chia sẻ dữ liệu với các CSDL dùng chung của Bộ VHTTDL. Mục đích của việc kết nối này là cung cấp các loại dữ liệu chủ, dữ liệu tổng hợp (thống kê) từ các hệ thống chuyên ngành để chia sẻ, tái sử dụng ở các đơn vị quản lý khác nhau trong Bộ và đồng thời cung cấp ra bên ngoài cho các Bộ, Ngành khác và/hoặc CSDL tổng hợp quốc gia. Việc kết nối sẽ được thực hiện thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu (LGPS) Bộ VHTTDL.
Định hướng cung cấp dữ liệu mở ngành VHTTDL
Dữ liệu mở của cơ quan nhà nước là dữ liệu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố rộng rãi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tự do sử dụng, tái sử dụng, chia sẻ. Dữ liệu mở là một yếu tố quan trọng thể hiện sự minh bạch và tinh thần kiến tạo của Chính phủ trong việc đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Dữ liệu mở đặc biệt quan trọng trong việc đo lường tác động của chính sách và nâng cao hiệu quả các dịch vụ công.
Tất cả các dữ liệu không vi phạm bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh, bảo vệ thông tin cá nhân, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các quy định hạn chế chia sẻ theo pháp luật đều có thể được xem xét cung cấp dưới dạng dữ liệu mở. Những loại dữ liệu thường được ưu tiên cung cấp dưới dạng dữ liệu mở bao gồm: dữ liệu thống kê, dữ liệu danh sách, danh mục dùng chung...
Đến nay, việc tiếp cận các nguồn dữ liệu mở của ngành VHTTDL nói chung và của Bộ VHTTDL nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động cung cấp các bộ dữ liệu mở chưa đồng bộ, thống nhất giữa các đơn vị, chưa có địa chỉ cung cấp dữ liệu mở của Bộ một cách tập trung, đáp ứng quy định.
Theo thống kê hiện nay, trong số 23 bộ dữ liệu mở Bộ VHTTDL cần công bố hàng năm theo Quyết định số 4029/QĐ-BVHTTDL có 11 bộ dữ liệu chưa được các đơn vị quản lý thực hiện công bố, như bộ dữ liệu về Khu di tích quốc gia, Danh mục hiện vật, Giải thể thao thành tích cao, Thành tích thi đấu thể thao cấp Quốc gia… Một số bộ dữ liệu đã được công bố tại trang thông tin của đơn vị quản lý dưới dạng bài viết hoặc định dạng đóng, như dữ liệu Danh mục phân loại phim ở định dạng ảnh quét, công bố dưới dạng bài viết chưa hoàn toàn thuận tiện cho việc tìm kiếm, tra cứu và khai thác, sử dụng của cộng đồng.
Đa phần các dữ liệu, bộ dữ liệu đã được các đơn vị quản lý công bố dưới dạng dịch vụ tra cứu, tìm kiếm thông tin, chưa hoàn toàn đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc căn bản của dữ liệu mở: nguyên tắc Tìm thấy được, Truy cập được, Tương hợp được, Sử dụng lại được – FAIR (Findable, Accessible, Interoperable, Reusable). Theo đó, để tối ưu khả năng tiếp cận, truy cập dữ liệu, các bộ dữ liệu mở của Bộ cần được tập hợp, quản lý với định danh duy nhất và tập trung tại Kho dữ liệu mở. Việc xây dựng các bộ dữ liệu mở theo tiêu chuẩn, với thành phần bắt buộc là siêu dữ liệu (metadata) của từng bộ dữ liệu đảm bảo việc thuận lợi trong truy cập và sử dụng bộ dữ liệu mở. Các bộ dữ liệu được công bố với các định dạng mở cho phép thiết bị, các hệ thống thông tin có khả năng hỗ trợ người dùng trong việc phân tích, tổng hợp và sử dụng tối đa giá trị mà bộ dữ liệu mở mang lại. Cuối cùng, các giấy phép sử dụng dữ liệu mở cho phép cộng đồng chia sẻ, tái sử dụng và bổ sung các giá trị gia tăng, từ đó tạo ra các sản phẩm, giá trị mới đóng góp cho cộng đồng, xã hội.
Trong thời gian tới, bên cạnh việc rà soát, cập nhật hàng năm danh mục dữ liệu mở của Bộ VHTTDL đã công bố, cần hoàn thiện, đưa vào vận hành hệ thống Kho và Cổng dữ liệu mở. Qua đó cung cấp cho các đơn vị quản lý những công cụ phần mềm cần thiết, phù hợp phục vụ cho công tác quản lý, công bố dữ liệu mở đúng quy định, đảm bảo các nguyên tắc cơ bản, đồng thời là môi trường tương tác, tiếp nhận ý kiến phản hồi của xã hội nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng dữ liệu mở nói riêng và các khía cạnh quản lý của Bộ VHTTDL nói chung./.