Di sản Văn hóa Việt Nam: Nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước
20/11/2025 | 15:57Ngày 23/11/2025 đánh dấu 20 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam, một mốc quan trọng trong hành trình bảo tồn và phát huy kho tàng văn hóa dân tộc. Từ những giá trị truyền thống được bảo vệ, các di sản văn hóa đã trở thành nguồn lực tinh thần và kinh tế, góp phần định hình bản sắc Việt Nam và thúc đẩy du lịch, công nghiệp văn hóa.
Kỷ niệm 20 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam, Ban Quản lý hồ Hoàn Kiếm và Phố cổ Hà Nội triển khai chuỗi sự kiện từ 5/11 đến 15/12/2025, qua đó khẳng định giá trị di sản, đồng thời nhấn mạnh vai trò của cộng đồng trong bảo tồn di sản văn hóa.
Di sản Văn hóa - nền tảng tinh thần vững chắc cho cộng đồng, động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội
Từ buổi đầu lịch sử, nhân loại đã hình thành và tích lũy một kho tàng những giá trị tinh thần và vật chất phản ánh tiến trình phát triển của các cộng đồng. Những giá trị ấy, được lưu giữ qua thời gian và liên tục được trao truyền giữa các thế hệ, tạo thành di sản văn hóa. Di sản văn hóa thường được nhận diện ở hai phương diện: Di sản phi vật thể là những tri thức dân gian, ngôn ngữ, nghi lễ, nghệ thuật trình diễn, tập quán, nghề truyền thống… tồn tại trong ký ức và trong thực hành cộng đồng; Di sản vật thể là những sáng tạo hữu hình như kiến trúc, di tích, hiện vật, cảnh quan mang dấu ấn lịch sử-văn hóa. Nếu di sản phi vật thể là phần "sống", được tái tạo không ngừng qua truyền miệng, truyền nghề, trình diễn, thì di sản vật thể là phần "đọng lại", ghi dấu thành tựu của từng thời kỳ văn hóa.
Ma nhai là hệ thống gồm 78 văn bản bằng chữ Hán và chữ Nôm (Hán Nôm), được khắc trên vách đá và hang động của danh thắng Ngũ Hành Sơn ở thành phố Đà Nẵng, được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức Thế giới Khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2023. Ảnh: Trần Lê Lâm – TTXVN
Việt Nam là quốc gia có bề dày lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm với hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng đa dạng, độc đáo, giàu giá trị. Từ các di sản vật thể như di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh, cổ vật, bảo vật quốc gia cho đến các loại hình phi vật thể, như: lễ hội, dân ca, tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống…, mỗi di sản đều là kết tinh của bản sắc dân tộc được bồi đắp qua hàng nghìn năm. Không chỉ góp phần nuôi dưỡng đời sống tinh thần của cộng đồng, các di sản này còn mở ra nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch bền vững và thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn mới.
Theo thống kê, cả nước hiện có hơn 10.000 di tích đã được xếp hạng, trong đó có trên 3.600 di tích quốc gia và khoảng 130 di tích quốc gia đặc biệt, trải rộng khắp các vùng miền. Song song với đó, hệ thống di sản văn hóa phi vật thể cũng được xác lập một cách bài bản; đến nay đã có hơn 7.000 di sản phi vật thể được kiểm kê và trên 500 di sản được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể quốc gia.
Trên phạm vi quốc tế, Việt Nam đã được UNESCO ghi danh 9 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 16 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 11 di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Thế giới. Những con số này không chỉ phản ánh bề dày lịch sử mà còn khẳng định vị thế văn hóa của Việt Nam trong không gian văn hóa khu vực và toàn cầu.
Bên cạnh hệ thống di tích và di sản, mạng lưới bảo tàng cả nước với gần 200 bảo tàng công lập và ngoài công lập, lưu giữ hơn 4 triệu hiện vật, đã trở thành thiết chế quan trọng trong việc bảo tồn và giáo dục di sản. Đây là nguồn tư liệu quý giá phục vụ nghiên cứu lịch sử - văn hóa, đồng thời là "ngân hàng dữ liệu" cho các hoạt động sáng tạo đương đại.
Chùa Vĩnh Nghiêm, nơi lưu giữ và trưng bày 3050 Mộc bản khắc kinh, được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương vào tháng 5/2012. Ảnh: Minh Quyết – TTXVN
Không chỉ dừng lại ở vai trò lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn tạo nên nền tảng tinh thần vững chắc cho cộng đồng, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, sự gắn kết giữa các thế hệ và niềm tự hào dân tộc. Những lễ hội truyền thống, những làn điệu dân ca, tri thức dân gian hay kiến trúc cổ không chỉ kể câu chuyện của quá khứ mà còn góp phần định hình bản sắc Việt Nam trong đời sống hiện đại.
Ở chiều cạnh kinh tế, di sản đã trở thành nguồn lực quan trọng cho du lịch. Số liệu giai đoạn 2016-2019 cho thấy lượng khách đến các khu di sản liên tục tăng, từ 14,3 triệu lượt năm 2016 lên 18,2 triệu lượt năm 2019, kéo theo doanh thu từ vé tham quan và dịch vụ tăng từ khoảng 1.776 tỷ đồng lên 2.322 tỷ đồng. Dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, ngành du lịch di sản đang hồi phục nhanh và tiếp tục đóng góp lớn vào mục tiêu phát triển du lịch bền vững và các ngành công nghiệp văn hóa.
Những thống kê ấy cho thấy di sản văn hóa không chỉ là "bằng chứng" của lịch sử, mà đang trở thành nguồn lực nội sinh, vừa định hình bản sắc văn hóa vừa tạo động lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Điều này lý giải vì sao việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản ngày càng được đặt vào vị trí trung tâm trong các chiến lược phát triển của đất nước.
Tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị các di sản văn hóa
Phát huy giá trị di sản văn hóa không chỉ đòi hỏi sự quan tâm về mặt bảo tồn mà còn cần những định hướng chiến lược để khai thác hiệu quả nguồn lực tinh thần và vật chất này.
Thành bậc điện Kính Thiên, thời Lê trung hưng là hiện vật gốc, độc bản gắn với di tích điện Kính Thiên - di tích quan trọng đặc biệt của Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội. Ảnh: Thanh Tùng - TTXVN
Nhận thức tầm quan trọng của di sản văn hóa, từ những ngày đầu của Nhà nước Việt Nam độc lập, Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo mang tính hệ thống. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL, "Ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện", khẳng định việc bảo tồn cổ tích là "công việc rất quan trọng và rất cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam". Tư tưởng này không chỉ thể hiện sớm quan điểm về giá trị di sản mà còn đặt nền móng cho hệ thống pháp luật và chính sách bảo vệ văn hóa dân tộc sau này.
Trong những năm qua, công tác pháp lý về di sản văn hóa tiếp tục được củng cố. Năm 2001, Luật Di sản Văn hóa ra đời, là căn cứ pháp lý để tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Ngày 23/11/2024, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV thông qua Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025, đánh dấu bước tiến quan trọng khi lần đầu tiên đưa vào các khái niệm, như: nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể, đưa ra trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng, tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ, phát huy di sản. Luật cũng làm rõ cơ chế xã hội hóa, hợp tác công-tư, ứng dụng công nghệ trong quản lý và số hóa di sản, đồng thời tăng cường chế tài xử lý hành vi xâm hại di sản. Đây là bước đi quan trọng nhằm bảo đảm rằng các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể không chỉ được bảo tồn mà còn được tiếp tục phát triển, khai thác bền vững.
Lễ đón nhận bằng di tích Quốc gia đặc biệt Thăng Long tứ trấn - Đền Bạch Mã. (Hà Nội, 18/6/2022) Ảnh: Tuấn Đức - TTXVN
Cùng với đó, nhiều địa phương, đặc biệt là những nơi có di sản, đã chủ động phát huy vai trò của cộng đồng, nghệ nhân, các câu lạc bộ văn hóa và doanh nghiệp. Tại các tỉnh, thành phố, việc trùng tu, tôn tạo di tích không chỉ được thực hiện bằng ngân sách nhà nước mà còn huy động nguồn lực xã hội hóa từ doanh nghiệp, quỹ từ thiện, các tổ chức quốc tế. Các nghệ nhân - những người nắm giữ kỹ năng truyền thống - đóng vai trò trung tâm trong việc giữ gìn và truyền dạy nghề, đồng thời tham gia vào các hoạt động trình diễn, trải nghiệm văn hóa nhằm đưa di sản đến gần công chúng, nhất là thế hệ trẻ. Những sáng kiến như các lớp học làm đồ lưu niệm, trải nghiệm nghề thủ công, trình diễn dân ca - nhạc cụ truyền thống… vừa bảo tồn giá trị vừa tạo ra thu nhập, cơ hội kinh tế cho cộng đồng.
Bên cạnh đó, định hướng phát triển hiện nay còn tập trung vào số hóa và ứng dụng công nghệ. Chương trình số hóa di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đặt mục tiêu chuẩn hóa và tập trung dữ liệu về di tích, hiện vật, tư liệu, di sản phi vật thể. Nhiều bảo tàng và viện nghiên cứu đã hình thành cơ sở dữ liệu số, số hóa hình ảnh, băng ghi âm, video, báo cáo khoa học và hiện vật quý giá. Việc này không chỉ phục vụ quản lý, nghiên cứu, giáo dục mà còn mở ra cơ hội phát triển du lịch ảo, trải nghiệm trực tuyến, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra quốc tế.
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, kiến trúc truyền thống của dân tộc Tày, Nùng, Mông, Lô Lô….tại các bản làng ven biên giới tỉnhCao Bằng, đã hình thành nên mô hình các làng du lịch cộng đồng, giúp Cao Bằng trở thành điểm đến của du khách trong nước và quốc tế. Trong ảnh: Các ngôi nhà được lợp bằng ngói âm dương tạo nên nét riêng biệt của làng đá cổ Khuổi Ky (Trùng Khánh). Ảnh: Nhật Anh - TTXVN
Trên phương diện quốc tế, Việt Nam là một trong những nước có đóng góp tích cực trong công tác bảo tồn di sản văn hóa thế giới. Việt Nam đã hai lần đảm nhiệm vai trò thành viên Ủy ban Di sản Thế giới - cơ quan điều hành then chốt về văn hóa của UNESCO; chủ trì nhiều sự kiện quốc tế quan trọng trong lĩnh vực di sản như: Hội nghị Chuyên gia về Chính sách UNESCO về Di sản Thế giới và Phát triển bền vững (2015), Hội nghị quốc tế về Bảo tồn và Phát triển Di sản đô thị (2017), Hội thảo quốc tế "Di sản thế giới và phát triển bền vững trong bối cảnh mới" (2018), Kỷ niệm 50 năm Công ước Di sản Thế giới (2022), Hội nghị quốc tế về phát huy danh hiệu UNESCO phục vụ phát triển bền vững tại Việt Nam (2023). Những đóng góp này khẳng định vị thế Việt Nam trên "bản đồ" di sản toàn cầu và tạo động lực quan trọng để trong nước tiếp tục bảo vệ, phát huy giá trị di sản.
Những nỗ lực này phản ánh chiến lược toàn diện: kết hợp chính sách pháp luật, sáng kiến địa phương, sức mạnh cộng đồng, sự tham gia của nghệ nhân và ứng dụng công nghệ. Khi được bảo vệ, phát huy và khai thác đúng cách, di sản văn hóa không chỉ là chứng nhân lịch sử, mà còn là nguồn lực nội sinh quan trọng, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và là động lực phát triển kinh tế-xã hội bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Từ năm 2005, ngày 23/11 được Thủ tướng Chính phủ lấy là "Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam". Trong suốt 20 năm qua, Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam đã góp phần nâng cao nhận thức về giá trị di sản, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, thúc đẩy việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa, đồng thời huy động sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào công tác gìn giữ di sản.
UNESCO chính thức ghi danh Di sản “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 12/2019 một lần nữa khẳng định thế giới đánh giá cao kho tàng văn hóa phong phú của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ảnh: Hoàng Hiếu - TTXVN
Nhân kỷ niệm 20 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/2005-23/11/2025), nhiều hoạt động ý nghĩa được tổ chức. Tại Hà Nội, Ban Quản lý hồ Hoàn Kiếm và Phố cổ Hà Nội triển khai chuỗi sự kiện từ 15/11 đến 15/12/2025, gồm lễ tôn vinh 30 năm giá trị di sản Áo dài Hà Nội, trưng bày danh y Hải Thượng Lãn Ông, trải nghiệm dược trà, dự án "Không gian kể chuyện đình Kim Ngân" với các ấn phẩm ứng dụng họa tiết truyền thống, chương trình "Chuyện Nhạc Phố Cổ" giới thiệu tinh hoa nhạc cổ Việt Nam, cùng nhiều hoạt động trải nghiệm làm đồ lưu niệm từ lụa, gỗ, giấy dó. Chuỗi sự kiện không chỉ tôn vinh giá trị di sản mà còn khẳng định vai trò chủ động, sáng tạo của cộng đồng trong bảo tồn văn hóa và quảng bá hình ảnh Hà Nội đến bạn bè quốc tế.


















