Việt Nam: Phát triển công nghiệp văn hoá trở thành ngành kinh tế quan trọng
27/10/2025 | 12:10Công nghiệp văn hoá Việt Nam là cụm từ được nhắc tới thường xuyên trong thời gian gần đây, nhất là kể từ khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014, về việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Công nghiệp văn hóa là ngành tương đối mới mẻ trong các ngành kinh tế Việt Nam, trong suốt thời gian qua, lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng như các cơ quan bộ, ban, ngành… luôn dành sự quan tâm và có những chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời, đồng thời có những văn bản triển khai thực hiện sát sao. Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Trung ương xác định: "Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội".
Ngay sau Nghị quyết số 33-NQ/TW được ban hành, nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, ngày 08/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó khẳng định, các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hoá. Chiến lược xác định 12 lĩnh vực của Công nghiệp văn hóa; đồng thời đề ra mục tiêu triển khai các lĩnh vực này đến năm 2030. Kết quả thực hiện Chiến lược bước đầu đã đạt được một số thành tựu nhất định về việc nâng cao nhận thức và khẳng định tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trong sự phát triển chung của đất nước.
Triển khai thực hiện, ngày 16/01/2017, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 126/QĐ-BVHTTDL về Kế hoạch của Ngành VHTTDL thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Kế hoạch bao gồm các nhiệm vụ thực hiện "Xây dựng cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa (Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, quảng cáo, du lịch văn hóa)" do Tổng cục Du lịch, Cục Điện ảnh, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Cục Nghệ thuật biểu diễn, Cục Văn hóa cơ sở chủ trì, "Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa" do Vụ Đào tạo chủ trì và "Xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia cho các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam" do Cục Bản quyền tác giả chủ trì.

Sự bùng nổ của mạng xã hội mang đến cơ hội lan toả các sản phẩm văn hoá trên các nền tảng số
Nhận định vai trò tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa trong kỷ nguyên số, kỷ nguyên thông minh, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh yêu cầu "Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh", Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh và đề ra nhiệm vụ "Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam". Thực tế này đặt ra yêu cầu cần xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn tới, đáp ứng với sự phát triển mạnh mẽ của thế giới và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiệm vụ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng đồng bộ và hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời quảng bá sự đa dạng của văn hóa Việt Nam, tiếp tục phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngày 22/12/2023, Hội nghị toàn quốc về Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội, do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì. Hội nghị được xem như là "hội nghị Diên Hồng" về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, lần đầu tiên được tổ chức, Hội nghị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Sau Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TTg, ngày 29/8/2024, về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, xây dựng thương hiệu quốc gia, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Chỉ thị nhấn mạnh sự cần thiết của việc có tư duy sáng tạo, hành động quyết liệt, đa dạng hóa các ngành nghề và chú trọng vào tính chuyên nghiệp, bản sắc và bền vững.
Quán triệt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 3316/QÐ-BVHTTDL phê duyệt Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 29/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đối với các lĩnh vực do Bộ VHTTDL quản lý, cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm, bao gồm cải thiện chính sách, thu hút nguồn lực xã hội và thúc đẩy chuyển đổi số. Kế hoạch được ban hành nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao Bộ VHTTDL tại Chỉ thị số 30/CT-TTg; Phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị thuộc Bộ VHTTDL và các đơn vị tại địa phương theo thẩm quyền trong quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TTg, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.
Chủ động, trách nhiệm triển khai thực hiện phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các yếu tố: Sáng tạo, bản sắc, độc đáo, chuyên nghiệp, lành mạnh, cạnh tranh, bền vững, trên nền tảng dân tộc, khoa học, đại chúng; từng bước tạo dựng thương hiệu quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường, luật pháp trong nước và quốc tế.
Ngày 27/11/2024, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 162/2024/QH15 phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035", trong đó nhấn mạnh việc "Huy động nguồn lực, tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chất lượng, hiệu quả cho phát triển văn hóa, đóng góp trực tiếp vào phát triển kinh tế- xã hội, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, mục tiêu đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP; 100% đơn vị văn hóa, nghệ thuật ứng dụng công nghệ số và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; mỗi năm có ít nhất 5 sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế có Việt Nam tham gia chính thức; Đến năm 2035, mục tiêu nâng tỷ lệ đóng góp lên 8% GDP và có ít nhất 6 sự kiện quốc tế lớn hàng năm có sự góp mặt của Việt Nam.

Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều lợi thế để phát triển các ngành công nghiệp văn hoá
Đầu năm 2025, tại Hội nghị Toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, một trong các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW là ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực quan trọng của đất nước, như văn hóa, tài nguyên, môi trường, giao thông, y tế, thương mại điện tử… Trong đó, Thủ tướng đặc biệt lưu ý đến việc đẩy mạnh chuyển đổi số để phát triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp giải trí; xây dựng và phát triển các sản phẩm văn hóa số chất lượng cao; thúc đẩy xây dựng cơ sở dữ liệu về văn hóa, di sản văn hóa số; tạo điều kiện cho người dân được hưởng thụ văn hóa; quốc tế hóa bản sắc văn hóa của Việt Nam; Việt Nam hóa tinh hoa văn hóa thế giới.
Gần đây nhất, ngày 23/9/2025, Bộ VHTTDL ban hành Quyết định số 3399/QĐ-BVHTTDL, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035, giai đoạn I: từ năm 2025 đến năm 2030. Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước (bao gồm: toàn bộ các thôn, bản, ấp, tổ dân phố và tương đương, các xã, phường, đặc khu, các tỉnh, thành phố thuộc Trung ương) và tại một số quốc gia có mối quan hệ, tương tác văn hóa lâu dài với Việt Nam, có đông đảo người Việt Nam sinh sống, lao động, học tập. Chương trình đặt ra 9 nhóm mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và 10 nội dung thành phần với các chỉ tiêu và nhiệm vụ cụ thể để thực hiện.
Chương trình dự kiến tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2025-2030 tối thiểu là 122.250 tỷ đồng, trong đó, vốn ngân sách Trung ương tối thiểu 77.000 tỷ đồng (chiếm 63%), vốn ngân sách địa phương 30.250 tỷ đồng (chiếm 24,6%) và nguồn vốn khác dự kiến 15.000 tỷ đồng (chiếm 12,4%). Trong đó: Năm 2025 là 50 tỷ đồng, giai đoạn 2026-2030 là 122.200 tỷ đồng (Vốn NSTW: 76.950 tỷ đồng; Vốn NSĐP: 30.250 tỷ đồng; Nguồn vốn khác: 15.000 tỷ đồng).
Song song với đó, để phù hợp với sự phát triển văn hóa Việt Nam trong tình hình hội nhập quốc tế và thời đại số, Bộ VHTTDL đã xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó khẳng định "Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn xã hội". Trong bối cảnh mới đòi hỏi các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam cũng phải có tầm cao hơn, khẳng định được nhận thức, vị trí của các ngành công nghiệp văn hóa, đồng thời thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa ở tầm cao mới.
Chiến lược nêu rõ, đến năm 2030, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trở thành ngành kinh tế quan trọng, trong đó tập trung phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế nhằm đạt mục tiêu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP. Có từ 5 đến 10 thương hiệu quốc gia tham gia sâu rộng và khẳng định thương hiệu trên thị trường quốc tế. Các sản phẩm công nghiệp văn hóa được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy phát triển và gia tăng giá trị.
Đến năm 2045, định vị công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp chủ chốt, phấn đấu doanh thu đóng góp 9% GDP, thu hút 6 triệu lao động, chiếm tỷ trọng 9% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế để Việt Nam trở thành quốc gia đứng đầu về phát triển công nghiệp văn hóa trong khu vực Đông Nam Á và là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp văn hóa phát triển trong khu vực Châu Á. Các ngành công nghiệp văn hóa góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế sáng tạo của quốc gia và định vị Việt Nam trên bản đồ phát triển của thế giới trong kỷ nguyên thông minh./.












