Gắn bảo tồn văn hóa với phát triển sinh kế: Hướng đi bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
27/11/2025 | 15:59Tại nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong những năm gần đây, bảo tồn văn hóa không còn là câu chuyện mang tính bảo tồn tĩnh như trước đây.
Thay vào đó, các giá trị văn hóa truyền thống đang dần trở thành nguồn lực, là "tài sản mềm" để người dân phát triển kinh tế hộ gia đình, xây dựng mô hình sinh kế mới và hướng đến thoát nghèo bền vững. Câu chuyện phát triển kinh tế bằng văn hóa không còn là khái niệm xa lạ, mà đã trở thành xu hướng chủ đạo tại nhiều địa phương.
Bảo tồn văn hóa không chỉ là gìn giữ, mà còn là tạo động lực phát triển
Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc – từ ngôn ngữ, trang phục, kiến trúc, nghệ thuật trình diễn, đến phong tục, lễ hội đều chứa đựng những giá trị riêng biệt và độc đáo. Nếu trước đây, những giá trị ấy chỉ được bảo tồn dưới dạng trưng bày hoặc thông qua phong trào văn nghệ, thì nay, chúng được khai thác như một nguồn lực phát triển gắn với du lịch cộng đồng và sản xuất hàng hóa.

Phục dựng lễ cúng Giang Sơn của đồng bào người Rục, tái hiện nét văn hóa truyền thống
Ở nhiều bản làng thuộc vùng núi phía Bắc, người dân đã biết tận dụng văn hóa truyền thống để thu hút khách du lịch. Những ngôi nhà sàn cổ được chỉnh trang lại thành không gian trải nghiệm; trang phục thổ cẩm trở thành sản phẩm thủ công được tiêu thụ mạnh; những điệu múa, khúc hát dân gian trở thành điểm nhấn trong các tour du lịch. Khi văn hóa trở thành sản phẩm kinh tế, người dân càng ý thức việc bảo tồn và giữ gìn bản sắc nhiều hơn.
Cách tiếp cận mới này không chỉ giúp bảo vệ giá trị văn hóa khỏi nguy cơ mai một, mà còn mở ra cơ hội phát triển sinh kế bền vững, phù hợp với điều kiện và truyền thống của từng cộng đồng dân tộc.
Một trong những mô hình thành công nhất gắn bảo tồn văn hóa với sinh kế chính là du lịch cộng đồng. Tại nhiều tỉnh miền núi, các bản du lịch cộng đồng đã trở thành điểm đến hấp dẫn nhờ giữ nguyên không gian văn hóa bản địa.

Cách tiếp cận mới giúp bảo vệ văn hóa không bị mai một
Những mô hình homestay mang đậm nét văn hóa địa phương không chỉ tạo thu nhập trực tiếp cho hộ dân mà còn lan tỏa lợi ích đến cả cộng đồng thông qua dịch vụ ăn uống, hướng dẫn du lịch, bán sản phẩm thủ công, tổ chức biểu diễn văn nghệ. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc khi văn hóa được "kích hoạt", toàn bộ cộng đồng đều được hưởng lợi.
Ở Tây Nguyên, không gian văn hóa cồng chiêng, kiến trúc nhà dài, nghề dệt thổ cẩm, nghề chế tác nhạc cụ… đang trở thành tài nguyên du lịch quý giá. Nhiều hợp tác xã, đặc biệt do phụ nữ làm chủ, đã tận dụng giá trị văn hóa để phát triển dịch vụ du lịch trải nghiệm, từ đó giúp nhiều hộ dân thoát nghèo và trở thành những hình mẫu điển hình trong phát triển kinh tế.
Nghề truyền thống hồi sinh – phụ nữ trở thành trung tâm
Nghề dệt thổ cẩm, nghề đan lát, làm gốm, chế tác nhạc cụ… tại nhiều vùng dân tộc thiểu số từng có thời kỳ mai một, nhưng đang dần hồi sinh nhờ gắn với du lịch và thương mại hóa sản phẩm. Đáng chú ý, phụ nữ là lực lượng tham gia đông đảo và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn nghề.
Tại các tỉnh Tây Bắc, nhiều hợp tác xã dệt thổ cẩm do phụ nữ làm chủ đã ra đời, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng trăm lao động. Thu nhập từ nghề dệt giúp nhiều gia đình trang trải cuộc sống, đầu tư cho giáo dục con cái và thoát nghèo một cách bền vững.

Hiệu quả từ các mô hình văn hóa - sinh kế đã cho thấy kết quả đáng ghi nhận khi tạo việc làm tại chỗ, đặc biệt cho phụ nữ và thanh niên
Ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bào Khmer khôi phục nghề dệt truyền thống, nghề điêu khắc và nghề làm đường thốt nốt để phục vụ du lịch. Không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa, các nghề này còn giúp tạo thu nhập tại chỗ, giảm tình trạng di cư lao động và góp phần giữ gìn sự gắn kết cộng đồng.
Bên cạnh việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa tốt đẹp, các địa phương cũng chú trọng loại bỏ những hủ tục gây cản trở phát triển kinh tế – xã hội như tảo hôn, mê tín dị đoan, lễ nghi tốn kém trong cưới hỏi, ma chay. Việc thay đổi nhận thức cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí không cần thiết, giúp người dân có điều kiện tập trung cho sản xuất và phát triển sinh kế.
Nhiều thôn bản đã xây dựng hương ước, quy ước văn hóa mới, trong đó quy định rõ các hình thức sinh hoạt văn minh, tiết kiệm. Già làng, trưởng bản, người uy tín được phát huy vai trò trung tâm trong việc vận động và làm gương cho cộng đồng.
Từ những quyết tâm, nỗ lực không ngừng nghỉ, hiệu quả từ các mô hình văn hóa - sinh kế đã cho thấy kết quả đáng ghi nhận khi tạo việc làm tại chỗ, đặc biệt cho phụ nữ và thanh niên; Tăng thu nhập từ dịch vụ du lịch, sản phẩm thủ công, đặc sản truyền thống; Khôi phục nghề truyền thống, tránh nguy cơ thất truyền; Tăng cường đoàn kết cộng đồng, tạo nền tảng để phát triển kinh tế – xã hội; Giảm chi phí xã hội nhờ loại bỏ hủ tục lạc hậu; Nâng cao vị thế văn hóa địa phương, thu hút đầu tư và khách du lịch...
Những mô hình này đã giúp hàng nghìn hộ nghèo có sinh kế ổn định, hướng tới thoát nghèo đa chiều và bền vững.












