Tin tức và Sự kiện

Cỡ chữ
A A
Từ viết tắt Đọc bài viết
× Đọc bài viết Tạm dừng Đọc tiếp Dừng đọc Đang tải...
Vui lòng chờ giây lát
× Bài viết không có file audio
Tương phản

Chuyển đổi số trong thư viện không chỉ là chuyển thông tin, tư liệu từ dạng giấy sang dạng điện tử

10/10/2025 | 10:32

Theo Ths. Nguyễn Hữu Giới, chuyển đổi số trong thư viện ở Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là đích đến của cả một quá trình. Chuyển đổi số không đơn giản chỉ là “động tác kỹ thuật” chuyển dạng thông tin, tư liệu từ dạng giấy sang dạng điện tử bằng máy scaner-sao chụp hiện đại; mà quan trọng là: các tài nguyên thông tin, các bộ sưu tập số, các dữ liệu trong các thư viện điện tử/thư viện số sẽ phải được lưu trữ, bảo quản, tích hợp, để phục vụ tối ưu/tối đa người dùng tin/bạn đọc của thư viện theo một phương thức mới, hiện đại hơn, tiện ích hơn so với truyền thống.

Ths. Nguyễn Hữu Giới - Chủ tịch Hội Thư viện Việt Nam cho biết, ngày 21/11/2019, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Thư viện (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020). Luật Thư viện như một Tấm hộ chiếu để Thư viện Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới.

Ngày 03/6/2020, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" với 3 trụ cột chính: Chính phủ số-Kinh tế số-Xã hội số; làm động lực thúc đẩy nhanh, mạnh và bền vững sự phát triển đất nước.

Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 206/QĐ-TTg, ngày 11/02/2021, Phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

Như vậy là chỉ trong một thời gian ngắn (3 năm); Nhà nước ta đã quan tâm, ban hành kịp thời những văn bản pháp quy quan trọng, chỉ đạo và định hướng cho sự phát triển và hiện đại hóa thư viện ở nước ta (trong đó có thực hiện Chuyển đổi số trong các thư viện), để thư viện Việt Nam có thể theo kịp xu thế phát triển chung của thư viện trên thế giới.

Chuyển đổi số trong thư viện khổn chỉ là chuyển dạng thông tin, tư liệu từ dạng giấy sang dạng điện tử  - Ảnh 1.

Theo Ths. Nguyễn Hữu Giới chuyển đổi số (CĐS) trong thư viện ở Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là đích đến của cả một quá trình. Chuyển đổi số không đơn giản chỉ là “động tác kỹ thuật” chuyển dạng thông tin, tư liệu từ dạng giấy sang dạng điện tử bằng máy scaner-sao chụp hiện đại; mà quan trọng là: các tài nguyên thông tin, các bộ sưu tập số, các dữ liệu trong các thư viện điện tử/thư viện số sẽ phải được lưu trữ, bảo quản, tích hợp, để phục vụ tối ưu/tối đa người dùng tin/bạn đọc của thư viện theo một phương thức mới, hiện đại hơn, tiện ích hơn so với truyền thống.

Chuyển đổi số trong thư viện ở Việt Nam là nhằm mục đích tích hợp dữ liệu/siêu dữ liệu (Big Data) và tài nguyên thông tin trong các thư viện vào một hệ thống dùng chung với những tiện ích cần thiết và hữu dụng.

Chuyển đổi số trong thư viện ở Việt Nam không chỉ là chuyển dạng thông tin, tư liệu từ dạng giấy sang dạng điện tử, để thư viện bảo quản, lưu trữ tài nguyên thông tin một cách tốt nhất, mà quan trọng là phải hướng tới hiệu quả xã hội của nó; tức là tổ chức, phân loại, hệ thống TNTT, dữ liệu số trong các thư viện, nghiên cứu các biện pháp, ứng dụng tiến bộ KHKT/KHCN tiên tiến trong lĩnh vực thư viện, để tổ chức phục vụ tối ưu/tối đa bạn đọc trong nước và trên thế giới. (ưu tiên ứng dụng CMCN 4.0). Nếu không thực hiện tốt công việc này thì CĐS của thư viện chúng ta không mang lại nhiều ý nghĩa.

Để thiết thực triển khai có hiệu quả chuyển đổi số trong hoạt động thư viện, góp phần nâng cao văn hóa đọc cho các tầng lớp nhân dân, Ths. Nguyễn Hữu Giới cho rằng, chúng ta cần lưu ý 3 trụ cột chính như sau: Cơ sở dữ liệu lớn (Big data), Trang thiết bị, phương tiện (Technology) và Nguồn nhân lực (Human).

Trong đó, Chuyển đổi số và xây dựng Cơ sở dữ liệu lớn (Big data) cho các thư viện ở Việt Nam, phục vụ văn hóa đọc cho nhân dân là nhiệm vụ quan trọng số 1 hiện nay, khi mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng xã hội số-kinh tế số và chính phủ số (đó là 3 trụ cột của chuyển đổi số quốc gia).

Bởi lẽ trong xã hội hiện đại, trong kỷ nguyên số hiện nay; nếu không có dữ liệu lớn trong các thư viện (với nhiều cơ sở dữ liệu toàn văn, các bộ sưu tập số phong phú và đa dạng…), thì chúng ta sẽ không thể chia sẻ tài nguyên thông tin cho các thư viện trong và ngoài hệ thống và phục vụ bạn đọc hiệu quả được. Nghị quyết số 57- NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN,ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia đã khẳng định vai trò đặc biệt của KH, CN, ĐMST và chuyển đổi số; xác định đây là đột phá quan trọng, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh.

Tổng Bí thư nêu rõ quan điểm: Luôn quán triệt xem đầu tư vào KH, CN, ĐMST và chuyển đổi số là chiến lược lâu dài “ Xem dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, là "không khí và ánh sáng" của kỷ nguyên mới, là tư liệu sản xuất mới; chuyển đổi số là công cụ đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, đổi mới lực lượng sản xuất. ĐMST chính là “cây gậy thần” đạt tới thịnh vượng bền vững, với nhà khoa học giữ vị trí trung tâm.

Vì vậy tất cả các trí thức KHCN ở nước ta cần phải nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và toàn diện hơn về NQ 57 của Bộ Chính trị; để từ đó có sự chuẩn bị sẵn sàng, đồng hành và hoạt động hiệu quả tốt hơn, đóng góp nhiều hơn cho Tổ quốc VN trong thời gian tới. Nói cách khác: Không có Big Data và cơ sở dữ liệu lớn, tài nguyên thông tin phong phú và đa dạng, thì không thể phát triển thư viện và văn hóa đọc cho các tầng lớp nhân dân trong gia đoạn cách mạng mới: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thứ hai, việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin, trang thiết bị thư viện, phục vụ việc chuyển đổi số, liên kết mạng thư viện, góp phần nâng cao văn hóa đọc cho nhân dân là yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số.

Hiện nay cơ sở vật chất cho thư viện và Trung tâm TT-TV trong nước; cũng đã từng bước được đầu tư, khá hiện đại so với trước. Trang thiết bị thư viện như: máy chủ, máy vi tính, phần mềm thư viện, máy scaner; nối mạng internet/mạng LAN, mạng WAN cũng được đầu tư hiện đại hơn. Chính các hạng mục này là tiền đề quan trọng, để tạo nên mạng liên kết thư viện trong cả nước (theo từng khối, từng cụm công tác), nâng cao khả năng phục vụ bạn đọc. Bởi lẽ các thư viện ở nước ta sẽ liên kết với nhau thông qua mạng dùng chung, được điều tiết bởi hệ điều hành trung tâm với máy chủ chứa hàng triệu trang tài liệu, hàng vạn cuốn sách/hoặc ứng dụng điện toán đám mây như 1 số nước trên thế giới.

Đồng thời nghiên cứu để ứng dụng phần mềm quản trị thư viện tích hợp gì, để ứng dụng chung cho các thư viện trong hệ thống, đảm bảo hợp lý, hiệu quả, thiết thực. Bên cạnh đó, cần lưu ý các thiết bị an ninh, an toàn mạng, tường lửa, đường truyền dữ liệu ổn định, tốc độ cao; đảm bảo an toàn, không trục trặc trong quá trình vận hành. Xem thế đủ thấy: nếu không đầu tư trang thiết bị để hiện đại hóa thư viện, không có hạ tầng CNTT đủ mạnh trong các thư viện, thì chúng ta thật khó có thể đẩy mạnh công tác thư viện và nâng cao văn hóa đọc cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội trong kỷ nguyên số.

Chuyển đổi số trong thư viện khổn chỉ là chuyển dạng thông tin, tư liệu từ dạng giấy sang dạng điện tử  - Ảnh 2.

Quản lý thư viện số

Thứ ba, Nguôn nhân lực (gồm cán bộ thư viện và cán bộ CNTT…) là những yếu tố quan trọng nhất quy định thành công cho việc chuyển đổi số thư viện ở nước ta, góp phần nâng cao văn hóa đọc cho nhân dân. Cần lưu ý, cán bộ thư viện thời đại CMCN 4.0, phải là những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức tốt, tinh thông nghiệp vụ, đặc biệt là ứng dụng thành thạo CNTT, chuyển đổi số, để vận hành và duy trì mạng thông tin hiệu quả nhất với những “Thư viện thông minh”.

Đặc biệt, nguồn nhân lực thư viện trong tương lai rất cần cho việc tiến hành hiện đại hóa, xây dựng thư viện điện tử-thư viện số và chuyển đổi số ở nhiều nơi còn đang thiếu. Các chuyên gia, cán bộ giỏi về lĩnh vực này còn ít.

Đây sẽ là thách thức lớn nhất khi thư viện tiếp cận CMCN 4.0 triển khai chuyển đổi số, vận hành mạng liên kết, chia sẻ tài nguyên thông tin và thống nhất mạng thư viện trong các hệ thống thư viện.

Rõ ràng là, nếu không có nguồn lực cán bộ thư viện;cán bộ CNTT đủ số lượng và chất lượng, chúng ta khó có thể quản lý, điều hành hoạt động thư viện một cách hiệu quả.

Đăng Nguyên

Bộ văn hóa, thể thao và du lịch
×